Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

NGỌN NÚI THỨ NĂM

PAULO COELHO

Paulo Coelho sinh ở Rio de Janeiro, Brasil, tháng 8 năm 1947. Ông học luật, nhưng đến năm 1970, ông bỏ học để đi chu du vòng quanh thế giới. Trở về Brasil, ông trở thành nhà soạn nhạc dân gian, trong đó có những ca khúc dành cho ca sĩ Raul Seixas nổi tiếng. Paulo Coelho cũng là nhà báo chuyên về âm nhạc Brasil; ông đã làm cho nhà Polygram và CBS cho đến năm 1980; lúc mà ông quyết định lại đi du lịch. Cuốn sách đầu tay “ Người hành hương Compostelle”, xuất bản tại Brasil năm 1987, kể lại kinh nghiệm của cuộc đi bộ dài 830 cây số lừng danh của ông trên con đường Santiago, hành trình xa xưa của khách hành hương đi Saint Jacques de Compostelle.
Nhà luyện kim- Alchimítte” xuất bản năm 1988 tại Brasil và dần dần trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất của mọi thời đại ở Nam Mỹ. Nó được xuất bản ở 45 nước bằng 34 ngôn ngữ khác nhau, cuốn “ Nhà luyện kim” đã bán được mười triệu bản trên khắp thế giới. Sách đã nhận được nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải “ Grinzane Cavour” năm 1996 hay “Giải sách được độc giả tạp chí Elle” vào năm 1995. “ Trên bờ sông Piedra, tôi ngồi tôi khóc” xuất bản năm 1994 đã được dịch ra 23 thứ tiếng.
Paulo Coelho còn xuất bản cuốn “ Sổ tay người chiến binh ánh sáng

NGỌN NÚI THỨ NĂM
( Dịch từ bản tiếng Pháp của MARCHAND-SAUVANARGUES- Nhà xuất bản Anne Carriere- 1998)
“Ngài nói tiếp:”Tôi bảo thật các ông:không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en thời ông Elia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thế mà ông không không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Sidon” – Luca 4,24-26


Dẫn nhập
Chín thế kỷ trước Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ra lệnh cho Elia rời bỏ Ít-ra-en lúc đó đang ở dưới sự cai trị của các vị vua bất xứng. Bước đường phiêu lưu đã đưa ông đến Phê-ni-xi, trong thành Sa-rep-ta đang bị quân As-xi-ri bao vây. Ở đó, ông đã mất tất cả, kể cả người mình yêu. Ông nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Vì sao có cái ác, thảm kịch, đau khổ?
Để trả lời cho các vấn nạn muôn thủa nầy của con người, một thiên sứ sẽ cho ông câu trả lời. Sau đó, Elia đã được trở lại quê hương và cầm đầu cuộc chiến chống lại vua A-kab và hoàng hậu Jê-za-ben, những người thờ phượng thần Ba-an.
Dựa trên những phần của Kinh Thánh, Paulo Coelho phát triển những chủ điểm ông đã đề cập trong “Nhà luyện kim- Alchimítte” , “ Trên bờ sông Piedra, tôi ngồi tôi khóc”, “ Người hành hương Compostelle”, , những cuốn sách đã giúp ông nổi tiếng toàn cầu: ý nghĩa mà mỗi người phải mang lại cho cuộc đời mình, sự kiên trì cần thiết để theo đuổi Huyền thoại của bản thân, sự cần thiết phải hiểu rằng thảm họa không phải là sự trừng phạt, nhưng là thách đố mà con người phải vượt qua.

PHẦN THỨ NHẤT

E-li-a nói:“ Tôi đã phụng sự một vị Thiên Chúa mà giờ đây Ngài bỏ mặc tôi trong tay kẻ thù của tôi”.
Thầy Lê-vi trả lời:” Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ngài đã không giải thích với Môi-sê là Ngài tốt hay là xấu. Ngài chỉ xác định: Ta là Đấng Hằng Hữu. Ngài là tất cả những gì hiện hữu dưới ánh mặt trời nầy- sấm sét tàn phá nhà cửa, bàn tay con người xây dựng lại.”
Nói chuyện là cách duy nhất để giảm bớt sợ hãi; bất cứ lúc nào, lính sẽ đạp tông cửa chuồng bò, nhìn thấy họ và cho họ một chọn lựa duy nhất: Thờ phụng Ba-an, vị thần của dân Phê-ni-xi, hay là bị giết. Lính lùng sục từng nhà, bắt cải đạo hay xử tử.
Thầy Lê-vi có lẽ sẽ cải đạo, như thế tránh được cái chết. Nhưng E-li-a thì không: tất cả là do lỗi của ông, và Je-za-ben muốn bằng mọi cách có cái đầu của ông.
Ông phân bua và gần như hối hận vì đã nghe lời thiên sứ:” Chính thiên thần Chúa sai tôi đến nói với vua A-kap và báo cho ông rằng trời sẽ không mưa khi nào thần Ba-an còn được thờ phụng trong nước Ít-ra-en.”” Nhưng Thiên Chúa hành động chậm chạp quá; khi hạn hán bắt đầu phát huy được hiệu quả thì Je-za-ben có lẽ đã tàn sát hết những người trung thành với Thiên Chúa”.
Thầy Lê-vi im lặng. Ông tự hỏi có nên cải đạo theo Ba-an hay chết vì danh Chúa. Elie nói tiếp:” Thiên Chúa là ai? Có phải Ngài là vị đang cầm thanh kiếm của những tên lính đang giết chóc những kẻ trung thành với đức tin của các tổ phụ đó sao? Có phải Ngài là người đã đặt lên ngai vàng của đất nước chúng ta một hoàng hậu người ngoại quốc để cho những tai ương đổ xuống trên thế hệ chúng ta? Đó có phải là vị Chúa đang giết chết những người trung thành với mình, những người vô tội, những người sống theo luật Môi-sê sao?”
Thầy Lê-vi quyết định: ông sẽ chết. Rồi ông cười lớn tiếng vì ý nghĩ cái chết không còn làm ông sợ hãi nữa. Ông quay lại phía vị ngôn sứ trẻ và cố gắng trấn an anh :
- Anh hỏi Thiên Chúa là ai, vì anh không biết các quyết định của ngài. Phần tôi, tôi đã chấp nhận phần số của mình.
- Chúa không thể mong muốn chúng ta bị tàn sát bi thảm như thế nầy, E-li-a nhấn giọng.
- Chúa làm gì cũng được. Nếu Ngài chỉ làm được những cái mà ta gọi là điều tốt thì chúng ta không thể gọi Ngài là Đấng “Toàn Năng” được; như thế, Ngài chỉ cai trị một phần của vũ trụ, và phải có một vị quyền năng hơn Ngài, cai quản Ngài và phán xét những hành vi của Ngài. Nếu nhu thế, tôi sẽ thờ phụng “vị có nhiều quyền năng hơn” kia.
- Nhưng nếu Chúa toàn năng, tại sao Ngài không cất đi đau khổ cho những kẻ yêu mến Ngài? Tại sao Ngài không cứu vớt chúng ta, lại còn trao cho kẻ thù của chúng ta vinh quang và quyền lực?
-Tôi không biết, thầy Lê-vi trả lời. Nhưng việc đó chắc phải có nguyên nhân, và tôi hy vọng sẽ sớm biết được.
- Anh không có câu trả lời cho vấn đề nầy?
- Không.
Cả hai ngồi im lặng. E-li-a đổ mồ hôi lạnh ngắt.
-Anh đang lo sợ, nhưng tôi thì đã chấp nhận số mệnh của mình, thầy Lê-vi nói. Tôi sẽ bước ra khỏi đây và chấm dứt cuộc hấp hối nầy. Mỗi khi tôi nghe một tiếng kêu bên ngoài, tôi lo sợ và tưởng tượng ra điều sẽ xảy ra khi giờ của tôi đến. Kể từ khi chúng ta ẩn mình nơi đây, tôi gần như đã chết đi cả trăm lần và đáng ra tôi có thể chỉ phải chết có một lần. đằng nào thì tôi cũng sẽ bị chém đầu, thà rằng nó đến nhanh đi.”
Ông ta có lý. E-li-a cũng đã nghe những tiếng kêu đó và anh đã đau đớn quá sức chịu đựng.
- Tôi đi theo ông. Tôi mệt mỏi vì phải cố gắng chiến đấu cho một vài giờ sống thêm rồi.
Anh đứng lên và bước ra mở cổng chuồng bò để cho ánh sáng mặt trời tố cáo sự hiện diện của hai mạng người đang trốn tránh ở đó.
Thầy Lê-vi cầm tay anh và họ bắt đầu bước đi. Ngoài một vài tiếng kêu la, ta có thể nói đó là một ngày bình thường như mọi ngày- trời nắng gắt, gió thổi từ biển xa vào làm cho không khí dễ chịu, những con đường bụi bặm, những ngôi nhà làm bằng đất sét trộn với rơm.
- Tâm trí chúng ta bị nỗi sợ hãi cái chết giam hãm, và đây là một ngày đẹp trời, thầy Lê-vi nói. Nhiều khi, khi tôi thấy mình an bình với Thiên Chúa và với loài người, trời nóng kinh khủng, gió từ sa mạc thổi cát vào đầy trong mắt tôi làm cho tôi không thấy gì hết. Chương trình của Thiên Chúa không luôn luôn giống như những gì chúng ta cảm thấy; nhưng tôi chắc chắn là Ngài có lý do của Ngài.
- Tôi khâm phục đức tin của ông.
Thầy Lê-vi nhìn lên trời, suy nghĩ. Rồi quay lại phía E-li-a:
- Đừng ca ngợi tôi và đừng tin như thế: đó là tôi đánh cược với chính mình. Tôi đánh cược với mình là Thiên Chúa hiện hữu.
E-li-a vặn lại:
- Ông là một ngôn sứ. Ông đã nghe những tiếng nói từ trời và ông biết là còn có một thế giới khác ngoài thế giới nầy.
- Có lẽ đó là do tôi tưởng tượng ra.
- Ông đã thấy những dấu chỉ của Thiên Chúa, Elia nhấn mạnh vì những lời của người bạn đồng hành bắt đầu làm anh lo âu.
Thầy Lê-vi lập lại: “ Có lẽ đó là do tôi tưởng tượng ra. Thật ra, điều cụ thể mà tôi có là cuộc cá cược của tôi: tôi tự nhủ rằng điều đó từ trên cao mà xuống.”


Con đường vắng tanh. Mọi người đang ở trong nhà, chờ quân lính của vua A-kab thực hiện công tác mà vị hoàng hậu ngoại quốc trao phó: tàn sát các ngôn sứ của Ít-ra-en. E-li-a cùng đi dọc theo con đường với thầy Lê-vi. Ông có cảm tưởng rằng, sau mỗi cánh cửa, cửa sổ, đang có những con mắt đang quan sát anh và kết tội anh về những gì đang xảy ra.
- Tôi đã không cầu xin được làm ngôn sứ. Điều đó có lẽ cũng xuất phát từ trí tưởng tượng của tôi. E-li-a tự nhủ.
Nhưng sau những gì xảy ra trong xưởng mộc, anh ta biết rằng không phải thế.
Từ khi còn bé, anh đã nghe những tiếng từ trời và nói chuyện với các thiên sứ. Do đó, cha mẹ anh đã buộc anh phải đến gặp một thầy tư tế của Ít-ra-en. Sau nhiều câu hỏi, vị tư tế đã công nhận anh là một “nabi”, một ngôn sứ, một “con người của tâm linh” và “được lời Chúa linh ứng”.
Sau nhiều giờ trao đổi với cha mẹ anh, vị tư tế giải thích cho họ rằng những gì em bé nầy nói ra cần phải được đặc biệt quan tâm.
Trên đường về, cha mẹ anh buộc E-li-a không được kể cho ai nghe những gì anh đã nghe, đã thấy; là ngôn sứ có nghĩa là sẽ có nhiều liên hệ với triều đình và điều đó thường rất nguy hiểm.
Dù sao thì E-li-a chưa nghe nói điều gì có thể làm cho các thầy tư tế hay nhà vua quan tâm. Anh chỉ nói chuyện với thiên thần bản mệnh của mình và nghe những lời khuyên liên quan đến chính cuộc đời anh thôi. Đôi lúc, anh có một vài thị kiến mà anh không hiểu- những đại dương xa xăm, những ngọn núi có những con người kỳ lạ cư ngụ, những bánh xe có cánh và có mắt. Khi những thị kiến biến đi, theo lời cha mẹ, anh cố gắng quên đi càng nhanh càng tốt.
Do đó, các tiếng nói và thị kiến càng lúc càng hiếm hoi. Hài lòng, cha mẹ anh không còn đề cập đến vấn đề nầy nữa. Khi anh đến tuổi phải tự lập, họ cho anh mượn tiền để mở một xưởng mộc nho nhỏ.
Anh thường xuyên kính cẩn nhìn những ngôn sứ đi trên những con đường của Ga-la-ad: Họ mang áo choàng, nịt bằng da thú và cả quyết rằng Thiên Chúa đã chọn họ để hướng dẫn dân riêng của Chúa. Thực ra, đó không phải là số phần dành cho anh. Chưa bao giờ anh có thể nắm bắt được, dù chỉ là một đoạn của một bài nhảy hay một phiên đánh sát phạt, một thực hành bình thường của những người được Chúa “linh ứng” vì anh sợ đau. Anh sẽ không bao giờ đi quanh những con đường của Ga-la-ad, phô trương những vết sẹo, dấu tích của những lần xuất thần vì anh quá nhút nhát.
E-li-a tự xem mình là một con người bình thường, ăn mặc như mọi người, tâm hồn anh cũng bị dằn vặt bởi những nỗi sợ và cám dỗ như mọi người. Công việc trong xưởng mộc càng tiến triển, các tiếng nói từ trời cũng chấm dứt vì người lớn và người lao động không có thời gian cho việc đó. Cha mẹ anh hài lòng về con mình , và cuộc đời trôi đi trong an bình.

Cuộc trao đổi với vị thầy cả khi anh còn bé dần dần trở thành một ký ức xa xôi. E-li-a không thể tin rằng Thiên Chúa toàn năng cần phải nói chuyện với con người để ban ra lệnh truyền. Những gì xảy ra với anh khi còn bé chỉ là sự nhẹ dạ của một đứa bé lười biếng. Tại Ga-la-ad, quê hương anh, có những người mà dân chúng xem như là người điên. Không thể nói lên được những ý kiến hay, họ không phân biệt được tiếng nói của Chúa và sự mê sảng . Họ lang thang trên đường phố, loan báo ngày tận thế và sống nhờ của bố thí. Nhưng không ai trong số họ được các thầy cả công nhận là người”được Thiên Chúa linh ứng”.
E-li-a nghĩ rằng các thầy cả nhiều khi cũng không chắc chắn về những gì họ phán quyết. Có nhiều người “ được Chúa linh ứng” vì đất nước không biết đi về đâu, anh em tranh chấp nhau, chính quyền không ổn định. Không có khác biệt gì giữa các ngôn sứ và người điên.
Khi anh nghe biết về cuộc hôn nhân giữa vua và Je-za-bel, công chúa xứ Tyr, E-li-a không cho đó là việc quan trọng. Nhiều vua Ít-ra-en khác cũng đã làm như vậy. Nhờ đó, cả vùng được hưởng một nền hòa bình bền vững và giao thương với Liban phát triển. E-li-a không xem việc các cư dân nước láng giềng tin vào những vị thần không hiện hữu hay cử hành những nghi lễ lạ lùng, như việc thờ các con vật, các ngọn núi là điều quan trọng; Họ lương thiện trong các giao ước, đó mới là cái chính yếu. E-li-a tiếp tục mua gỗ hương nam của họ và bán cho họ những sản phẩm của anh. Cho dù họ có tỏ ra hơi kiêu hãnh, không một thương nhân nào của xứ Liban đã tìm cách thủ lợi từ những xáo trộn bên trong Ít-ra-en. Họ trả hàng đúng giá và không bình luận gì về những cuộc nội chiến cũng như các vấn đề chính trị mà người Ít-ra-en phải thường xuyên đối mặt.

Sau khi lên ngôi, Je-za-bel đã cầu xin A-kab thay việc thờ kính Thiên Chúa bằng việc tôn thờ các thần của xứ Liban.
Việc đó trước đây cũng đã từng xảy ra. Dù cho E-li-a nổi giận vì sự chấp nhận của A-kap, anh vẫn tiếp tục thờ phượng Thiên Chúa của Ít-ra-en và giữ luật Môi-sê. Anh nghĩ:” Việc đó sẽ không kéo dài lâu được. Je-za-bel làm A-kap si mê, nhưng bà sẽ không thể thuyết phục toàn dân được.”.
Nhưng Je-za-bel không phải là một phụ nữ như những phụ nữ khác; bà tin rằng Ba-an đã sinh ra bà để làm cho mọi dân mọi nước trở lại. Tinh tế và kiên nhẩn, bà bắt đầu tưởng thưởng những ai từ bỏ Thiên Chúa và chấp nhận các thần mới. A-kap ra lệnh xây một đền thờ kính Ba-an ở Sa-ma-ri, bên trong có bàn thờ. Các đoàn hành hương tuôn đến và việc thờ phụng các thần xứ Liban phát triển khắp nước.
Rồi sẽ qua thôi. Việc đó có thể kéo dài một thế hệ, nhưng rồi sẽ chấm dứt”. E-li-a luôn nghĩ vậy.
Rồi những biến cố mà anh không ngờ tới dồn dập xảy ra. Một buổi chiều, khi anh vừa hoàn thành một cái bàn trong xưởng mộc, tất cả bỗng trở nên tối sầm chung quanh anh và hàng ngàn chấm sáng trắng bắt đầu nhấp nháy. Đầu anh đau nhức như búa bổ; anh muốn ngồi xuống, nhưng anh nhận ra là mình không nhúc nhích được.
Đây không phải là tưởng tượng.
Anh nghĩ:“Tôi chết mất. Bây giờ, tôi đã biết nơi mà Thiên Chúa sẽ đưa ta đến sau khi chết: giữa các vì tinh tú.”
Một trong những đốm sáng nhấp nháy mạnh hơn và bỗng nhiên nó như đến từ mọi phía, “lời Chúa nói với anh:” Đi nói với A-kap, nhân danh Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của Ít-ra-en là Đấng mà tôi phục vụ: sẽ không có sương sa hay mưa trong những năm tới.” 
Ngay sau đó, mọi sự trở lại bình thường, xưởng mộc, ánh hoàng hôn, tiếng trẻ con vui chơi ngoài đường.

Đêm đó, E-li-a không ngủ được. Lần đầu tiên sau nhiều năm, những cảm nhận lúc ấu thời trở lại; và không phải thiên thần bản mệnh nói với anh, nhưng “cái gì đó” mạnh mẽ hơn. Anh ngần ngại, nếu anh không nghe theo lệnh nầy, tất cả những hành động của anh sẽ bị chúc dữ.
Sáng ngày hôm sau, anh quyết định làm điều người ta đã yêu cầu anh. Rút cuộc, anh chỉ truyền đạt một thông điệp không liên quan gì đến anh; một khi công việc nầy hoàn tất, những tiếng nói kia sẽ không đến quấy rầy anh nữa.
Anh không gặp khó khăn nào khi xin diện kiến vua A-kap. Từ nhiều thế hệ trước, khi vua Sao-lê lên ngôi, các ngôn sứ đã có một vai trò ngày càng quan trọng trong các công việc và việc điều hành đất nước. Họ có thể kết hôn, có con, nhưng họ phải luôn luôn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa để cho những nhà cai trị không đi lạc con đường công chính. Truyền thống xác định rằng, chính nhờ những “ người được Thiên Chúa linh ứng” nầy, dân tộc đã chiến thắng nhiều cuộc chiến và Ít-ra-en vẫn tồn tại vì khi các nhà lãnh đạo đi sai đường, luôn luôn có một ngôn sứ để làm cho họ quay về với đường lối của Chúa.
Khi đến nơi, E-li-a cảnh báo nhà vua rằng hạn hán sẽ tàn phá cả vùng cho đến khi nào việc thờ phụng các thần Phê-ni-xy bị bãi bỏ.
Vua không xem những lời nầy là quan trọng, nhưng đứng bên cạnh vua A-kap, Je-za-bel chú ý lắng nghe và bắt đầu hạch hỏi anh. E-li-a kể cho bà nghe về thị kiến, về việc bị nhức đầu, về cảm giác thời gian như ngừng lại khi anh nghe thiên sứ nói. Trong khi đang thuật lại sự việc, anh có thể nhìn thấy thật gần vị hoàng hậu mà mọi người đều nói đến. Đó là một trong những người đàn bà đẹp nhất mà anh từng gặp, tóc đen dài ngang lưng. Mắt bà xanh, long lanh trên khuôn mặt nâu, đang nhìn vào mắt E-li-a. Anh không thể đoán được ý nghĩa của cái nhìn đó, và anh không biết những điều mình nói có ảnh hưởng gì.
Anh ra khỏi triều, tin chắc là sứ mệnh đã hoàn thành và từ nay anh có thể trở lại làm việc trong xưởng mộc. Trên đường về, với sức sống của chàng trai hai mươi ba tuổi, anh mơ ước có được một người vợ như Je-za-bel. Và anh cầu xin Chúa cho anh sau nầy gặp được một phụ nữ Liban, vì họ quá đẹp, với nước da màu bánh mật và đôi mắt xanh huyền bí.
Anh làm việc cả ngày và ngủ an lành. Ngày hôm sau, anh bị thầy Lê-vi đánh thức trước bình minh. Je-za-bel đã thuyết phục được vua A-kap rằng: các ngôn sứ là một đe dọa cho sự phát triển và mở rộng của Ít-ra-en. Lính của vua A-kap được lệnh giết tất cả những ai không từ bỏ sứ mệnh của Thiên Chúa. Nhưng với E-li-a, không có lựa chọn khác, anh phải chết.
E-li-a và thầy Lê-vi đã trốn hai ngày trong cái chuồng bò phía nam Ga-la-ad nầy, trong lúc bốn trăm năm mươi nabít bị hành hình. Trong lúc đó, phần lớn các “ngôn sứ” mà ngày thường hay lang thang trên những con đường để đánh tội và tiên báo ngày tận thế vì tội lỗi và thiếu đức tin, đã chấp nhận theo tôn giáo mới.

Một tiếng động khô khan kèm theo một tiếng la cắt ngang dòng suy tư của E-li-a. Ông quay lại hỏi bạn đồng hành:
- Gì vậy?”
Nhưng không có tiếng trả lời: thân xác thầy Lê-vi đã nằm dài ra đất, một mũi tên cắm vào ngực.
Trước mặt anh, một người lính đang lắp một mũi tên mới. E-li-a nhìn quanh mình: con đường, các cửa ngõ đều đóng, mặt trời chói chang trên cao, ngọn gió mát thổi từ đại dương mà ông đã nghe nói nhưng chưa bao giờ thấy. Anh tính bỏ chạy, nhưng anh chắc chắn sẽ không chạy được xa. 
- Nếu phải chết, không phải là với một mũi tên găm sau lưng”
Người lính lại giương cung. Thật ngạc nhiên, E-li-a không cảm thấy sợ, bản năng sinh tồn cũng không, không gì hết. Như thể màn kịch đã được dàn dựng từ rất lâu rồi, và ngày nầy hay ngày khác, anh và tên lính phải đóng một vai trong vở kịch không phải do họ sáng tác. Anh nhớ lại tuổi thơ, những buổi sáng và buổi chiều ở Ga-la-ad, những công việc chưa hoàn thành trong xưởng mộc. Anh nghĩ đến mẹ cha, những người không bao giờ mong ước có một đứa con làm ngôn sứ. Anh nhớ tới đôi mắt của Je-za-bel và nụ cười của vua A-kap.
Anh nghĩ rằng chết ở tuổi hai mươi ba thật là ngu ngốc, chưa biết thế nào là tình yêu của một phụ nữ.
Bàn tay rời dây cung, mũi tên xé gió bay đi, tiếng mũi tên rít bên tai phải anh, và cắm xuống đất phía sau anh.
Một lần nữa, người lính lại lắp tên vào cung và nhắm bắn anh. Nhưng thay vì bắn, anh ta nhìn E-li-a.
- Tao là cung thủ thiện xạ nhất trong quân đội của A-kap, anh ta nói. Đã bảy năm nay, chưa bao giờ tao bắn trật phát nào.”
E-li-a nhìn lại cái xác của thấy Lê-vi.
Mũi tên đó là để dành cho mầy, người lính vẫn giương cung nhưng tay run rẩy. “ E-li-a là ngôn sứ duy nhất phải giết; những người khác có thể thờ thần Ba-an.
- Thế thì làm xong công việc của anh đi.
Anh ngạc nhiên vì sự điềm tĩnh của chính mình. Trong những đêm gần đây, trong chuồng bò, anh đã bao lần suy nghĩ đến cái chết và bây giờ anh hiểu là anh đã đau khổ nhiều hơn mức cần thiết. Chỉ một vài giây thôi là xong.
“ Tôi không thể”, người lính nói, tay còn run và mũi tên liên tục thay đổi hướng nhắm.” Đi đi! Đi khuất mắt tao! Tao nghĩ rằng Thiên Chúa đã làm lệch hướng mũi tên của tao, và Ngài sẽ chúc dữ tao nếu tao giết được mầy.”
Lúc đó, E-li-a nghĩ rằng mình có cơ hội sống sót  và nỗi sợ chết lại xâm chiếm lấy anh. Anh còn có thể thấy đại dương, có thể gặp được một người phụ nữ, có con cái và hoàn thành những công việc trong xưởng mộc.
- Làm nhanh đi, anh nói. Lúc nầy, tôi đang bình tĩnh. Nếu anh đợi quá lâu, tôi sẽ đau khổ nhiều hơn vì những gì tôi sắp mất đi.
Người lính nhìn xung quanh để chắc chắn không có ai chứng kiến. Rồi anh hạ cung, bỏ tên vào bao và biến mất.

E-li-a cảm thấy chân tay bủn rủn; cái sợ đã trở lại. Anh phải trốn khỏi Ga-la-ad ngay lập tức, không bao giờ trực diện với lính đang giương cung nhắm vào tim mình. Anh đã không chọn số phận của mình và anh đã không đi gặp A-kap để huênh hoang với xóm giềng là anh đã trao đổi với vua. Anh không chịu trách nhiệm về việc tàn sát các ngôn sứ. Anh cũng không chịu trách nhiệm về việc chiều nọ anh đã thấy xưởng mộc biến thành một lỗ đen, đầy những chấm sáng li ti.
Bắt chước người lính, anh nhìn quanh. Con đường vắng tanh. Anh nghĩ đến việc cấp cứu cho thầy Lê-vi, nếu còn có thể, nhưng cái sợ ập đến và trước khi có người đi đến, E-li-a đã bỏ trốn. 
Ông đi bộ nhiều giờ liền, đi vào những con đường từ lâu không có người qua lại và sau cùng đến suối Kê-rít. Anh xấu hổ vì sự hèn nhát của mình nhưng vui mừng vì còn được sống.
Anh uống một Ít nước , ngồi nghỉ và chỉ đến lúc đó anh mới nhận ra tình cảnh của mình. Ngày mai, anh phải ăn mà trong sa mạc nầy thì không có gì để ăn cả.
Anh nhớ lại xưởng mộc, công việc anh đã làm bao nhiêu năm nay, và anh đã buộc lòng phải bỏ lại sau lưng. Một vài người láng giềng là bạn anh, nhưng không thể tin họ được. Câu chuyện trốn chạy của anh đã lan truyền khắp thành phố, và mọi người khinh ghét anh vì anh bỏ trốn trong khi anh làm cho những người có đức tin phải chết.
Tất cả những gì anh làm từ trước đến nay đã sụp đổ vì anh tưởng rằng mình làm theo ý Chúa. Ngày mai và những ngày sau đó, tuần nầy qua tháng khác, những thương nhân Li-Ban sẽ đến gõ cửa nhà anh và người ta sẽ cho họ biết là chủ nhân đã bỏ trốn, gieo rắc cái chết cho những ngôn sứ. Có lẽ người ta sẽ thêm rằng anh đã cố gắng hạ bệ các vị thần che chở trời đất. Câu chuyện sau đó sẽ vượt qua biên giới Ít-ra-en và có lẽ anh sẽ không bao giờ có thể kết hôn với một phụ nữ đẹp như những cô đang sống ở Lyban.

- Có tàu
Vâng, có những con tàu. Người ta có tục lệ chấp nhận cho những người mang trọng tội, những tù nhân chiến tranh, những người lẩn trốn được làm thủy thủ vì đó là cái nghề còn nguy hiểm hơn đi lính. Trong trận mạc, một người lính dù sao cũng còn cơ may sống sót; nhưng đại dương là nơi mọi người ít biết đến, chứa đầy quái vật và khi một tai họa xảy ra, không có ai sống sót để thuật lại câu chuyện.
Chắc chắn như thế, có những con thuyền, nhưng nó là sở hữu của người Phê-ni-xy. E-li-a không phải là tội phạm, là tù nhân hay người chạy trốn, anh chỉ là một người đã dám lên tiếng chống lại thần Ba-an. Khi người ta phát hiện ra anh, người ta sẽ bắt anh và ném xuống biển vì thủy thủ  tin rằng thần Ba-an và các thần phụ thuộc làm chủ giông bão.

Anh không thể đi về hướng biển. Không thể đi về phương bắc vì đó là Liban. Anh không đi về hướng đông được, nơi dân tộc Ít-ra-en đã tiến hành những cuộc chiến tranh từ nhiều thế hệ nay.
Anh nhớ lại sự bình tâm khi anh đối diện với người lính. Rốt cuộc, chết là gì? Một khoảnh khắc, không hơn không kém. Dù có chút đau đớn, nó sẽ qua nhanh thôi, và Đức Chúa các đạo binh sẽ đón anh vào trong lòng Ngài. 
Anh nằm trên đất và nhìn trời hồi lâu. Như thầy Lê-vi, anh cố gắng đánh cược, không phải về sự hiện hữu của Thiên Chúa, anh không nghi ngờ gì về điểm nầy, nhưng về lý tưởng của đời anh.
Anh thấy núi non, đất đai sắp bị một cơn hạn hán lớn tàn phá- như thiên sứ của Chúa đã báo tin- nhưng hiện nay còn giữ được màu xanh của những năm mưa thuận gió hòa trước đây. Anh nhìn giòng suối Kê-rít, sẽ khô cạn bây giờ. Anh kính cẩn và thành khẩn nói lời tạm biệt với thế giới, và cầu xin Chúa đón nhận anh khi đến giờ.
Anh tự hỏi, đâu là lý do hiện hữu của anh và không được trả lời.
Anh tự hỏi xem mình phải đi đâu và hiểu ra rằng anh đang bị bao vây.
Ngày mai, anh sẽ quay trở lại và tự nộp mình dù cho nỗi sợ cái chết đã quay lại với anh.
Anh cố gắng vui lên vì anh còn có thêm một vài giờ để sống. Không được. Anh vừa khám phá ra rằng con người hiếm khi có quyền ra được một quyết định.

Ngày hôm sau, khi E-li-a thức dậy, anh lại nhìn giòng suối Kê-rít. Ngày mai, hay trong một năm nữa, đó chỉ sẽ là một lối đi gồm cát và đá cuội. Người ta sẽ tiếp tục gọi nó là Kê-rít và có thể họ sẽ chỉ đường cho khách lữ hành như sau:”Làng nào đó, bên bờ sông chảy ngang qua đây .” Lữ khách sẽ đi đến đây, sẽ thấy đá cuội và cát mịn và họ sẽ nghĩ thế nầy:” Ở đây trước kia là một dòng sông”.Nhưng điều quan trọng với một con sông là nguồn suối đã không còn ở đó nữa.
Cũng như sông suối, cây cối, linh hồn con người cũng cần có mưa, nhưng là loại mưa khác: đó là hy vọng, niềm tin, lý tưởng sống. Nếu không, cho dù thể xác vẫn đang còn sống, linh hồn đã thối rữa; và người ta có thể nói:” ở đây, trong thân xác nầy, đã có một con người”.
Đây chưa phải lúc để nghĩ đến tất cả những cái đó. Một lần nữa, anh nhớ lại cuộc trò chuyện với thầy Lê-vi, không lâu trước khi họ rời chuồng bò: tại sao phải có nhiều người chết như vậy thay vì chỉ cần một người? Tất cả những gì họ phải làm là đợi lính của Je-za-bel đến. Họ chắc chắn sẽ đến vì không có nhiều con đường trốn ra khỏi Ga-la-ad. Những tội phạm thường trốn vào sa mạc- ở đó, chúng sẽ chết nội trong vài ngày- hay về hướng suối Kê-rít. Nơi chúng sẽ nhanh chóng bị bắt trở lại. Như thế thì lính sẽ nhanh chóng đến đây. Và anh sẽ vui mừng khi nhìn thấy họ.
Anh uống một chút nước trong veo, rửa mặt và tìm một nơi có bóng râm ngồi đợi những người truy đuổi mình. Con người không thể chiến thắng được số phận của mình- anh đã cố gắng chiến đấu, nhưng đã thất bại.
Dù anh được các thầy tư tế xem như là một ngôn sứ, E-li-a đã làm việc trong xưởng mộc, nhưng Thiên Chúa đã dẫn anh trở lại con đường của Ngài.
Anh không phải là người duy nhất đã cố gắng từ bỏ con đường sống mà Thiên Chúa đã vạch ra cho từng người dưới thế gian. Anh có một người bạn, có giọng hát rất hay và cha mẹ anh không chấp nhận cho anh làm ca sĩ- vì đó là cái nghề làm hạ phẩm giá của gia đình. Một bạn gái của anh lúc thiếu thời biết nhảy múa như người lớn, nhưng gia đình đã cấm tiệt – với lý do là nhà vua có thể gọi cô ta vào cung và không ai biết được nhà vua sẽ trị vì bao lâu. Hơn nữa, đời sống trong cung rất trụy lạc, hiểm độc-cô ta sẽ không bao giờ có cơ may lấy được một tấm chồng đường hoàng. Con người sinh ra để chống lại số phận của chính mình.” Thiên Chúa chỉ đặt trên vai ta những nhiệm vụ bất khả thi.
Tại sao?
Có lẽ bởi vì truyền thống cần được lưu truyền.
Nhưng đó không phải là câu trả lời đúng.” Cư dân Liban tiến bộ hơn chúng ta vì họ không đi theo truyền thống của những nhà hàng hải. Trong lúc mọi người đều sử dụng cùng một loại tàu, họ đã quyết định đóng một loại tàu khác. Nhiều người đã mất mạng trên biển, nhưng tàu của họ đã dần được hoàn thiện và bây giờ, đội thương thuyền của họ làm chủ trên mặt biển. Họ đã trả giá đắt để thích nghi, nhưng cũng xứng đáng.”
Có thể con người chống lại số mệnh của mình vì Chúa đã rời xa họ. Sau khi đã đặt vào trong con người giấc mơ về một thời kỳ ở đó muốn gì được nấy. Ngài đã lo đi chăm sóc những điều mới mẻ khác. Thế giới đã đổi thay, cuộc sống khó khăn hơn, nhưng Thiên Chúa chưa bao giờ trở lại để chỉnh sửa giấc mộng của con người.
Chúa ở rất xa. Nhưng nếu Ngài gởi các thiên sứ đến nói chuyện với các ngôn sứ thì cũng còn việc gì đó để làm ở thế gian nầy. Như thế câu trả lời là gì?
Có lẽ cha ông chúng ta đã nhầm và họ sợ chúng ta cũng phạm sai lầm như họ chăng? Hay có thể họ không bao giờ sai lầm và họ không biết phải giúp đỡ chúng ta thế nào khi chúng ta có vấn đề.”
Anh cảm thấy đang đến gần câu trả lời.

Con suối chảy cạnh anh, một vài con quạ chao lượn trên trời, mấy bụi cây dại kiên quyết mọc lên từ nền đất cát cằn cỗi. Nếu chúng đã nghe lời các tiền nhân, chúng đã nghe được gì?
Con suối, kiếm một nơi tốt hơn để nước trong vắt của mầy phản chiếu ánh quang mặt trời vì sa mạc đang vắt khô mầy” có lẽ một vị thần nước đã nói như vậy nếu như vị đó hiện hữu.” Quạ ơi, thức ăn trong rừng nhiều hơn trên sa mạc”, vị thần chim sẽ nói như thế.” Cây cỏ, hãy gieo hạt mầm xa nơi đây vì thế giới còn nhiều đất đai phì nhiêu và ẩm ướt và các con sẽ mọc nhanh”, thần hoa sẽ nói như thế.
Nhưng cả giòng suối Kê-rít, cả cỏ cây, cả quạ- một con đến đậu gần anh- đã không có can đảm để làm như những giòng sông khác, những con chim khác hay hoa cỏ khác vì cho rằng không thể.
E-li-a nhìn con quạ. Anh nói với nó:
- Tao đang học, cho dù cái học đó là vô dụng, vì tao sắp phải chết.
Anh đã khám phá ra là mọi sự khá đơn giản, con quạ hình như muốn trả lời. Chỉ cần có can đảm.”
E-li-a cười vì anh đặt lời mình vào trong miệng con quạ. Đó là một trò vui - anh học được khi học làm bánh với một người phụ nữ- và anh muốn tiếp tục chơi. Anh sẽ đặt nhiều câu hỏi và tự trả lời cho mình như là một nhà thông thái thực thụ.
Nhưng con quạ đã bay đi. E-li-a đợi những người lính của Je-za-bel đến, vì ai cũng một lần chết mà thôi.

Ngày trôi qua, không có gì xảy ra. Hay là họ đã quên nhân vật chính chống đối Ba-an đang còn sống chăng? Tại sao Je-za-bel không truy sát mình vì có lẽ bà biết anh đang ở đâu?
Vì tôi đã thấy đôi mắt của bà, và đó là một phụ nữ khôn ngoan, anh tự bảo. Nếu tôi chết , tôi sẽ trở thành kẻ tuẫn đạo của Chúa. Nếu được xem như là một người chạy trốn, tôi chỉ là một thằng hèn, không tin ngay cả vào lời mình nói.
Vâng, đó chính là cách làm của hoàng hậu.
Trước khi trời tối, một con quạ-có phải là con khi trước không?- đến đậu trên cành cây mà anh đã thấy con quạ sáng nay. Nó ngậm trong miệng một miếng thịt và vì vô ý nó làm rơi xuống.
Với E-li-a, đó là một phép lạ. Anh chạy đến gốc cây, cầm lấy miếng thịt và ăn. Anh không biết miếng thịt từ đâu đến và cũng không cần tìm biết; quan trọng là nó làm dịu cơn đói của anh.
Dù cho hành động nhanh nhẹn của anh, con quạ cũng không bay đi..
Con chim nầy biết mình sắp chết đói ở đây, E-li-a thầm nghĩ. Nó vỗ béo con mồi đây mà.” 
Je-za-bel cũng “ vỗ béo” đức tin vào Ba-an bằng câu chuyện trốn chạy của E-li-a.
Trong một lúc, cả hai , con chim và con người nhìn nhau. E-li-a nhớ lại trò chơi sáng nay.
- Quạ ơi, tao thích nói chuyện với mầy. Sáng nay, tao nghĩ rằng các linh hồn cũng cần thực phẩm. Nếu linh hồn tao chưa chết vì đói, nó cũng còn có chuyện để nói đó.”
Con chim đứng lặng yên.
- Và nếu linh hồn tao còn có gì đó để nói, tao phải lằng nghe, vì tao cũng chẳng còn ai để nói chuyện.”
Vận dụng trí tưởng tượng, E-li-a biến mình thành con quạ.
- Thiên Chúa mong đợi gì nơi anh? Anh tự hỏi chính anh như thể anh là con quạ.
- Ngài mong anh trở thành ngôn sứ.
- Đó là điều các thầy tư tế nói. Nhưng có thể đó không phải là điều Thiên Chúa mong đợi.
- Không, chính Ngài mong muốn như thế. Vì thiên sứ đã hiện ra trong xưởng mộc và đã yêu cầu ta đi nói với A-kap. Những tiếng nói ta nghe từ khi còn bé…Con quạ ngắt lời.
…nhưng mọi người đều đã nghe khi còn nhỏ.
- Nhưng đâu phải ai cũng thấy một thiên sứ, E-li-a vặn lại.
Lần nầy, con quạ không đáp lời, sau một lúc, con chim- hay đúng hơn là chính anh bị mê sảng vì sức nóng và cô đơn- giữ im lặng.
- Mầy còn nhớ cái bà làm bánh không? Anh tự hỏi mình.
- E-li-a nhớ chứ. Bà đến xin anh đóng cho bà vài cái khay. Trong lúc anh làm, anh nghe nói là việc anh làm một cách nào đó diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Như cách anh làm những cái khay nầy, tôi nghĩ là anh cũng có cùng cảm giác. Anh cười khi anh làm việc.”
Người đàn bà xếp con người thành hai loại: loại người hạnh phúc và loại người luôn càm ràm về tất cả những gì họ làm. Loại người nầy xác tín rằng lời Thiên Chúa nguyền rủa Adong:” Đất sẽ bị nguyền rủa vì ngươi. Mầy phải lao nhọc kiếm sống mọi ngày suốt đời ngươi” là chân lý duy nhất. Họ không vui khi phải làm việc và bực mình trong những ngày lễ lạc, khi họ bi buộc phải nghỉ ngơi. Họ dùng Lời Chúa để biện minh cho cuộc sống vô ích của họ, mà quên rằng Chúa cũng đã nói với Môi-sê:”Chúa là Thiên Chúa ngươi sẽ chúc phúc tràn trề cho đất mà Ngài sẽ ban cho ngươi làm gia nghiệp.”

Vâng, tôi nhớ người đàn bà nầy, E-li-a trả lời con quạ. Bà ta có lý, tôi yêu công việc trong xưởng mộc của tôi”. Mỗi cái bàn, cái ghế anh đóng giúp anh hiểu và yêu mến cuộc đời hơn, dù chỉ cho đến bây giờ anh mới nhận chân ra điều đó. “Bà ta đã giải thích cho tôi rằng nếu tôi nói chuyện với những đồ vật tôi làm ra, tôi sẽ kinh ngạc nhận ra rằng bàn, ghế sẽ trả lời tôi, bởi vì tôi đặt vào đó những gì tinh hoa nhất của tâm hồn tôi và bù lại, tôi nhận được sự khôn ngoan.
Nếu anh không phải là thợ mộc, anh cũng không biết cách để tâm hồn mình ra khỏi mình, giả bộ như là một con quạ đang nói, và biết rằng mình tốt hơn, khôn ngoan hơn mình nghĩ. Chính trong xưởng mộc mà anh khám phá ra rằng sự linh thánh ở khắp mọi nơi.
Tôi thường thích làm như đang nói chuyện với bàn, ghế mà tôi đóng. Như thế đã đủ chưa? Người đàn bà có lý. Khi tôi nói chuyện như thế, tôi có được những ý tưởng mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Nhưng từ khi tôi bắt đầu hiểu là tôi có thể phụng sự Thiên Chúa theo cách đó, thiên thần đã hiện ra và…Vâng, mầy biết đoạn tiếp theo rồi.
- Thiên sứ đã hiện ra bởi vì ông đã sẵn sàng, con quạ nói tiếp.
- Tôi là một thợ mộc giỏi.
Đó cũng là một phần trong việc huấn luyện ông. Khi một con người dấn thân vào định mệnh mình, thường khi anh ta phải thay đổi phương hướng. Đôi khi, những hoàn cảnh bên ngoài mạnh mẽ hơn và buộc ta phải tỏ ra hèn và nhượng bộ. Tất cả những cái đó là cấu thành của quá trình học việc.
E-li-a chăm chú lắng nghe những gì tâm hồn ông đang nói.
Nhưng không ai có thể lơ là điều anh ta mong ước. Ngay cả khi, vào một lúc nào đó, người ta cho rằng cuộc đời và con người mạnh hơn mình. Bí mật là đây: không bỏ cuộc.
- Tôi chưa bao giờ muốn mình là ngôn sứ.
- Có. Nhưng anh đã cố biện minh điều đó là không thể. Hay là nguy hiểm. 
E-li-a đứng lên. Anh la lớn:”Tại sao mầy lại nói với tao những điều ta không muốn nghe?
Sợ sệt vì động tác nầy, con chim bay đi.

Sáng ngày hôm sau, con chim trở lại. Thay vì tiếp tục cuộc trò chuyện, E-li-a quan sát nó, vì con vật luôn tìm đủ thức ăn cho nó và còn mang phần đến cho anh.
Một tình bạn kỳ bí phát triển giữa hai bên, và E-li-a bắt đầu học nơi con chim. Anh thấy cách tìm kiếm thức ăn trong sa mạc và anh có thể sống thêm vài ngày nếu anh biết làm như nó. Khi con chim bay vòng tròn, E-li-a biết rằng có con mồi gần đó; anh chạy lại nơi đó và cố gắng bắt con mồi. Lúc đầu, nhiều con vật nhỏ bé thoát được, nhưng qua thời gian tập luyện, anh đã thiện nghệ hơn. Anh bẻ cành cây làm cần và đào lỗ đặt bẩy rồi phủ lên một lớp đá cuội và cát để giấu đi. Khi con mồi sập bẩy, E-li-a chia phần cho con quạ, chỉ giữ lại chút ít làm mồi nhử.
Nhưng sự cô đơn quá nặng nề đến nỗi anh quyết định nói chuyện tiếp với con chim.
- Ông là ai? Con chim hỏi.
- Tôi là người đã tìm thấy bình an, E-li-a trả lời. Tôi có thể sống trong sa mạc, tự cung cấp thức ăn cho mình, và ngắm nhìn vẻ đẹp vô tận của tạo vật Chúa đã dựng nên. Tôi đã phát hiện rằng tôi có trong mình một tâm hồn tốt hơn là tôi tưởng.”
Hai bên tiếp tục săn mồi dưới ánh trăng. Rồi một đêm khi tâm hồn tràn ngập nỗi buồn, anh quyết định tự hỏi thêm một lần nữa:
- Ông là ai?
- Tôi không biết.

Một mùa trăng qua đi. E-li-a thấy mình mạnh mẽ hơn, và tâm trí sáng suốt hơn. Đêm đó, anh nhìn con quạ, luôn đậu trên cùng một cành cây và trả lời cho câu hỏi mà anh đã đặt ra trước đây:
Tôi là một ngôn sứ. Tôi đã thấy thiên sứ khi tôi đang làm việc, và tôi không thể nghi ngờ điều tôi có thể làm, dù cho tất cả mọi người trên thế gian nầy nói điều ngược lại. Tôi đã gây nên một cuộc tàn sát trên quê hương tôi và tôi đã thách thức người yêu dấu của vua tôi. Tôi đang ở trong sa mạc- như tôi đã ở trong xưởng mộc của tôi- bởi vì linh hồn tôi nói với tôi rằng một con người phải sống qua nhiều giai đoạn khác nhau trước khi hoàn thành sứ mệnh của mình.
- Vâng, nhưng bây giờ ông đã biết ông là ai, con quạ nói.
Đêm đó, khi E-li-a đi săn về, anh muốn uống nước, nhưng suối Kê-rít đã cạn khô. Quá mệt mỏi, ông đi ngủ.
Trong cơn mơ, thiên sứ mà ông đã không thấy từ lâu hiện ra.
“ Thiên thần của Thiên Chúa đã nói với tôi. Và ngài đã ra lệnh:” Đi khỏi đây, đi về phía đông và ẩn mình trong khe Kê-rít, phía đông song Gio-dan; và Ta đã ra lệnh cho con quạ nuôi sống ngươi.”
- Con đã nghe, E-li-a nói trong mơ.
- Vậy thì dậy đi. Sứ thần Thiên Chúa muốn ta rời xa ông và ngài muốn nói chuyện với ông.
E-li-a chồm dậy, sợ hãi. Cái gì đã xảy ra?
Dù là đang đêm, nơi đây tràn ngập ánh sáng và thiên sứ của Chúa xuất hiện.
- Ai đã đưa ngươi tới đây? Thiên sứ hỏi.
- Chính ngài.
- Không, Je-za-bel và quân lính của bà ta đã buộc ngươi phải trốn đi. Đừng bao giờ quên là sứ mệnh của ngươi là phục hận cho Thiên Chúa ngươi.
- Tôi là ngôn sứ, vì ngài đang ở trước mặt tôi và tôi nghe tiếng ngài, E-li-a nói. Tôi đã thay đổi phương hướng nhiều lần, mọi người đều làm như thế. Nhưng tôi sẵn sàng đi đến Sa-ma-ri-a và tàn sát Je-za-bel.
- Ngươi đã nhận ra con đường ngươi phải đi, nhưng ngươi không thể tàn phá mà không học xây dựng. Ta truyền cho ngươi:” Đứng dậy, đi đến thành Sa-rep-ta thuộc Si-don, ngươi sẽ ở đó; ta đã lệnh cho một bà góa ở đó nuôi ngươi.”
Sáng hôm sau, E-li-a tìm con quạ để nói lời từ biệt. Lần đầu tiên kể từ khi anh đến suối Kê-rít, con chim không xuất hiện.

E-li-a đi bộ nhiều ngày và cuối cùng cũng đến được Sa-rep-ta mà cư dân gọi là Ak-ba. Khi sắp kiệt sức, ông thấy một người đàn bà, mặc đồ đen đang nhặt củi. Thung lũng trơ trọi và bà phải nhặt củi khô.
- Bà là ai? Anh hỏi.
Người đàn bà nhìn người đàn ông xa lạ, không hiểu ông nói gì.
- Cho tôi xin chút nước, E-li-a nói. Tôi một mình, đói và khát, tôi không còn sức để đe dọa bất kỳ ai nữa.
- Ông không phải là người ở đây, bà nói. Theo như giọng nói của ông, chắc là ông từ vương quốc Ít-ra-en đến. Ông biết là tôi không có gì cả.
- Bà góa chồng, Thiên Chúa đã nói với tôi như thế. Và tôi còn có ít hơn bà, nếu bây giờ bà không cho tôi ăn uống chút gì, tôi sẽ chết ngay.”
Người đàn bà sợ sệt. Làm sao người đàn ông nầy biết đời tư của mình?
- Một người đàn ông sẽ cảm thấy nhục khi xin đàn bà cái ăn, bà trả lời.
- Hãy làm như tôi nói, tôi xin bà đó, E-li-a nài nỉ. Anh cảm thấy đuối sức. Khi nào khỏe, tôi sẽ làm việc cho bà.”
Người đàn bà cười.
- Anh vừa nói đúng: tôi là góa phụ, chồng tôi chết trên một chiếc thuyền buôn của nước tôi. Tôi chưa thấy biển, nhưng tôi biết rằng, cũng như sa mạc, biển giết chết những người dám chống lại nó. Rồi bà nói tiếp:
- Bây giờ, ông nói dối. Nhân danh thần Ba-an đang sống trên Ngọn Núi Thứ Năm, tôi không có gì ăn cả. Chỉ còn một nắm bột trong hũ và một ít dầu trong bình .”

E-li-a cảm thấy chân trời lay động và anh biết rằng anh sắp ngất xỉu. Gom chút sức tàn, anh van xin lần cuối:
-Tôi không biết bà có tin vào các giấc mộng không, tôi cũng không tin. Nhưng Thiên Chúa đã báo cho tôi biết, khi đến đây, tôi sẽ gặp bà. Thiên Chúa đã làm nhiều việc khiến tôi nghi ngờ sự khôn ngoan của Ngài, nhưng tôi chưa bao giờ nghi ngờ sự hiện hữu của Ngài. Và Thiên Chúa của Ít-ra-en đã yêu cầu tôi nói với người phụ nữ mà tôi sẽ gặp ở Sa-rep-ta:
Hũ bột sẽ không vơi,
Bình dầu sẽ không cạn
Cho đến ngày Thiên Chúa
Cho mưa xuống trên đất.

Không giải thích phép lạ sẽ xảy ra như thế nào, E-li-a gục xuống bất tỉnh.
Người đàn bà đứng lặng yên nhìn người đàn ông đang gục ngã dưới chân mình một lúc. Bà biết là Thiên Chúa của Ít-ra-en không phải là môt điều dị đoan. Các thần Phê-ni-xy hùng mạnh hơn nhiều và đã làm cho đất nước bà trở thành một đất nước được thế giới kính trọng. Nhưng bà hài lòng; bà thường sống bằng của bố thí và hôm nay, lần đầu tiên từ lâu rồi, một người đàn ông cần bà. Bà cảm thấy mạnh mẽ hơn. Rốt cuộc, cũng có người còn có hoàn cảnh bi đát hơn cả bà.
Nếu còn có người đến van xin mình, tức là mình còn chút giá trị trên trần gian nầy, bà tự nhủ. Ta sẽ làm như ông ta yêu cầu, đơn giản chỉ để xoa dịu nỗi đau của ông ta. Ta cũng từng biết cái đói, và ta biết nó tàn phá tâm hồn người ta như thế nào.”
Bà về nhà rồi trở lại với một miếng bánh và vò nước. Bà quì xuống, đặt đầu người đàn ông xa lạ lên gối mình và lấy nước thấm ướt môi ông. Sau một vài phút, ông tỉnh lại.
Bà đưa bánh cho ông, và E-li-a ăn trong im lặng. Anh nhìn thung lũng, những đoàn người, những ngọn núi lặng lẽ nhô lên trời. Ông nhìn thấy tường thành màu đỏ của Sa-rep-ta, chế ngự con đường băng ngang thung lũng.
- Cho tôi ở lại nhà bà, tôi bị truy đuổi trong xứ tôi”, anh nói.
- Ông đã phạm tội gì?
- Tôi là một tiên tri của Thiên Chúa. Je-za-bel đã ra lệnh giết tất cả những ai từ chối thờ các vị thần Phê-ni-xy.
- Ông bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi ba.
Bà nhìn chàng thanh niên đứng trước mặt mình với đôi mắt đầy thương cảm.Tóc anh dài và dơ bẩn. Anh có râu, một bộ râu còn thưa, làm như thể anh ta muốn tỏ ra già hơn tuổi. Làm sao một con người khốn khổ như thế nầy lại có thể thách thức bà hoàng quyền uy nhất thiên hạ?
- Nếu ông là kẻ thù của Je-za-bel, ông cũng là kẻ thù của tôi. Bà ta là công chúa xứ Tyr và khi kết hôn với vua nước anh, bà đã nhận sứ mạng đưa dân tộc anh đến với đức tin chân thực. Đó là điều mà những người đã biết bà hoàng xác quyết.
Bà chỉ một rặng núi bao quanh thung lũng:
- Các thần của chúng tôi ở trên Ngọn Núi Thứ Năm từ nhiều thế hệ nay. Các thần đã giữ gìn hòa bình cho nước tôi. Còn Ít-ra-en thì sống trong chiến tranh và đau khổ. Làm sao có thể tiếp tục tin vào Thiên Chúa độc nhất? Xin cho Je-za-bel có đủ thời gian để hoàn thành sứ mạng và ông sẽ thấy hòa bình ngự trị trong các thành thị của ông.
- Tôi đã nghe tiếng Chúa, E-li-a trả lời. Còn bà, đã bao giờ bà leo lên đỉnh ngọn Núi Thứ Năm để xem trên đó có gì không?
- Ai leo lên đó sẽ bị lửa từ trời thiêu đốt. Các thần không ưa người lạ.
Bà ta im lặng. Bà nhớ lại là đêm hôm qua, trong mơ, bà đã thấy một luồng sáng, từ đó có giọng nói vọng ra:” Hảy tiếp nhận người lạ đang đến tìm bà.”
- Xin cho tôi ở lại, tôi không có chỗ nào để ngủ cả” E-li-a nói.
-Tôi đã nói với ông rồi, tôi nghèo lắm. Tôi chỉ có chút ít cho tôi và con tôi.
Thiên Chúa đã yêu cầu bà cho tôi trú ngụ, Ngài không bao giờ bỏ rơi người Ngài yêu thương. Tôi van bà. Tôi sẽ làm việc cho bà. Tôi là thợ mộc, tôi sẽ có người đặt hàng. Như thế, Thiên Chúa sẽ dùng tay tôi để thực hiện lời hứa của Ngài:”Hũ bột sẽ không cạn, bình dầu sẽ không vơi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất.”
- Dù cho có muốn, tôi cũng không có tiền trả cho ông.
- Không cần. Thiên Chúa sẽ định liệu.
Bối rối vì giấc mơ đêm trước và dù bà biết người lạ nầy là kẻ thù của công chúa Si-don, bà chấp nhận.

Hàng xóm sớm phát hiện sự có mặt của E-Li-a. Người ta kể rằng bà góa đã đưa một người lạ vào trong nhà, không màng gì đến ký ức về người chồng-một anh hùng đã hy sinh khi tìm cách mở mang những con đường giao thương cho đất nước.
Khi bà biết được những tiếng xì xầm nầy, bà góa giải thích đó là một ngôn sứ Ít-ra-en đang bị đói khát. Rồi tin tức loan truyền rằng một tiên tri Ít-ra-en chạy trốn bàn tay của Je-za-bel đang trốn trong thành phố. Một phái đoàn đại diện đến hỏi ý kiến thầy tư tế.
- Hãy đưa nó đến đây”, thầy tư tế ra lệnh.
Thế là, chiều hôm đó, E-li-a được dẫn tới trước mặt người , cùng với quan tổng trấn và ông lãnh binh, kiểm soát tất cả những gì xảy ra ở Ak-ba.
- Ông đến đây làm gì? Ông hỏi. Ông không biết ông là kẻ thù của nước chúng tôi sao?
- Trong nhiều năm, tôi đã làm ăn với Li-Ban và tôi kính trọng đất nước nầy, phong tục của ngài. Tôi đến đây vì tôi bị truy sát ở Ít-ra-en.
- Ta đã biết nguyên nhân, thầy tư tế nói. Vì một người đàn bà mà ngươi phải đi trốn, phải không?
- Người đàn bà nầy là tạo vật đẹp nhất mà tôi được gặp, dù rằng, tôi chỉ đứng trước mặt bà có vài phút. Nhưng tim bà cứng như đá và sau đôi mắt xanh biếc kia ẩn giấu kẻ thù đang mong muốn tàn phá quê hương tôi. Tôi không chạy trốn; tôi chỉ đợi lúc thuân tiện để quay về bên đó.”
Thầy tư tế cười.
- Thế thì chuẩn bị tinh thần để ở lại Ak-ba suốt đời ngươi. Chúng tôi không có chiến tranh với nước ông. Tất cả những gì chúng tôi mong muốn là bằng những phương cách hòa bình- để đức tin chân chính được lan tỏa ra khắp thế giới. Chúng tôi không muốn lặp lại những hành động man rợ mà các ông đã thực hiện khi tiến vào Ca-na-an.
- Giết các ngôn sứ có phải là phương cách hòa bình?
Nếu ta cắt đầu con quái vật, nó hết hiện hữu. Có thể một vài người sẽ phải chết, nhưng những cuộc chiến tranh tôn giáo sẽ không bao giờ tái diễn. Và theo những gì các thương nhân kể lại với ta, một ngôn sứ tên E-li-a là nguồn gốc của mọi việc, sau đó tên nầy đã bỏ trốn.”
Thầy tư tế nhìn anh chằm chặp trước khi nói tiếp:
- Một người giống như ngươi.
- Chính tôi đây, E-li-a trả lời.
- Tuyệt vời. Xin chào mừng đến thành phố Ak-ba. Khi nào chúng tôi cần có cái gì từ Je-za-ben, chúng tôi sẽ trả giá bằng cái đầu của ngươi- loại tiền tốt nhất mà chúng tôi có. Trong lúc chờ đợi, hãy đi tìm một công việc gì đó để sinh sống, ở đây không có chỗ cho các tiên tri.”
E-li-a chuẩn bị ra về thì thầy tư tế nói thêm:
- Người ta nói rằng một phụ nữ trẻ xứ Si-don có quyền lực hơn Thiên Chúa của ngươi. Bà ta đã thành công trong việc xây dựng bàn thờ Ba-an, và các tư tế của ngươi bây giờ quì lạy trước bàn thờ đó.
- Mọi việc sẽ xảy ra như lời Thiên Chúa đã viết, vị ngôn sứ đáp lại. Đến một lúc nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ trải qua những gian truân và chúng ta không tránh được. Nhưng tất cả những nghịch cảnh đó đều có một nguyên nhân.
- Nguyên nhân gì?
- Tôi không thể trả lời câu hỏi nầy trước hay trong khi xảy ra. Chỉ khi chúng ta đã vượt qua, chúng ta sẽ hiểu tại sao chúng xảy ra.

Khi E-Li-a đi rồi, vị tư tế họp hội đồng ban đại diện đã đến gặp ông sáng nay.
- Các vị đừng giận, ông nói. Truyền thống buộc chúng ta phải cho khách lạ cư trú. Hơn nữa, hắn ta ở đây, dưới quyền kiểm soát của chúng ta, chúng ta có thể kiểm soát việc đi lại của hắn. Cách tốt nhất để biết và tiêu diệt kẻ thù, là làm bộ như là bạn của nó. Khi đến lúc thuận lợi, hắn sẽ được giao nộp cho Je-za-ben, và thành phố chúng ta sẽ được thưởng vàng và nhiều phần thưởng. Từ nay tới đó, chúng ta sẽ biết cách xóa bỏ niềm tin của nó; hiện nay, chúng ta mới biết giết được thân xác hắn ta thôi.”
Dù rằng E-Li-a là người thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và là một kẻ thù tiềm năng của nữ hoàng, thầy tư tế nhấn mạnh, nhưng quyền cư trú phải được tôn trọng. Mọi người đều biết truyền thống xa xưa nầy: nếu một thành nào từ chối cho một lử khách cư ngụ, con cái của dân thành cũng sẽ phải chịu số phận tương tự. Và vì rất đông con cái dân thành đang sống tản mác trên những thuyền buôn, không ai dám chống lại luật cư trú.
Hơn nữa, đợi chờ cái ngày nộp đầu tên tiên tri Ít-ra-en đổi lấy một mớ vàng thì có mất mát gì đâu.
Tối hôm đó, E-Li-a ăn tối với bà góa và con trai bà. Vì vị ngôn sứ Ít-ra-en bây giờ là món hàng có giá để trao đổi sau nầy, một vài nhà buôn đã gởi lương thực đến cho gia đình đủ ăn trong cả một tuần.
- Có thể nói rằng Thiên Chúa Ít-ra-en đã giữ lời hứa, bà góa nói. Từ khi chồng tôi mất, bàn ăn của tôi chưa bao giờ sung túc như thế nầy.”
E-li-a hội nhập dần dần vào đời sống ở Sa-rep-ta. Cũng như các cư dân khác, anh bắt đầu gọi nó là Ak-ba. Anh làm quen với quan tổng trấn, quan lãnh binh, thầy tư tế, những thợ thủ công chế tác đồ thủy tinh mà mọi người trong vùng đều ưa chuộng. Khi người ta hỏi anh làm gì bên Ít-ra-en, anh nói thật: Je-za-ben giết tất cả các tiên tri bên Ít-ra-en.
Ông là người phản bội quê hương mình, và là kẻ thù của Phê-nê-xy, người ta vặn lại. Nhưng chúng tôi là con dân đất nước sống về thương mãi, và chúng tôi biết rằng một con người càng nguy hiểm, giá cái đầu của nó càng cao.”

Nhiều tháng trôi qua.
Ở ngõ dẫn vào thung lũng, một đơn vị quân Át-xi-ri đến đóng quân và hầu như có ý định ở lại. Đó là một đơn vị nhỏ, không nguy hiểm gì. Dù sao, quan lãnh binh cũng xin quan tổng trấn có biện pháp thích hợp.
- Họ chẳng làm gì chúng ta cả, quan tổng trấn lưu ý. Có lẽ họ đang có một sứ mệnh thương mại nào đó, tìm kiếm một hướng đi mới để đưa hàng hóa đi, họ sẽ đóng thuế và rồi chúng ta sẽ giàu hơn. Tại sao lại gây hấn với họ?’

Để làm cho tình hình thêm trầm trọng, con trai của bà góa ngã bệnh mà không có nguyên nhân gì rõ ràng. Láng giềng cho rằng vì đó là có sự hiện diện của người lạ trong nhà, và bà góa cầu xin E-li-a ra đi. Nhưng anh không làm gì cả- Thiên Chúa chưa gọi anh. Tiếng đồn loan truyền rằng người ngoại quốc nầy lôi kéo cơn giận của các vị thần trên Ngọn Núi Thứ Năm.
Người ta có thể kiểm soát được quân đội và trấn an dân chúng về sự hiện diện của quân As-xi-ri. Nhưng khi con trai của bà góa lâm bệnh, quan tổng trấn càng lúc càng khó trấn an dân chúng mà sự hiện diện của E-li-a làm họ lo ngại.
Một đoàn đại diện tới gặp ông để đề nghị:
Chúng ta có thể xây cho người Ít-ra-en nầy một ngôi nhà ngoài tường thành. Như thế, chúng ta không trái luật cư trú, nhưng tự bảo vệ được trước cơn giận của các thần. Các thần không hài lòng vì sự hiện diện của người nầy.
- Hãy để ông ta ở nguyên chỗ đấy, quan tổng trấn trả lời. Tôi không muốn có rắc rối chính trị với Ít-ra-en.
- Sao! Đám đông la lên. Je-za-ben truy sát tất cả những tiên tri tôn thờ Thiên Chúa độc nhất.
- Công chúa của chúng ta là một người can đảm và trung thành với các vị thần trên Ngọn Núi Thứ Năm. Nhưng dù cho quyền hành đang có hiện nay, bà không phải là người Ít-ra-en. Bà có thể bị thất sủng nay mai, và rồi chúng ta lại phải đối mặt với cơn thịnh nộ của nước láng giềng. Nếu chúng ta chứng minh được là chúng ta xử tốt với một ngôn sứ của họ, họ sẽ khoan dung với chúng ta.”
Phái đoàn ra về nhưng không bằng lòng, vì thầy tư tế đã nói rằng , một ngày kia, E-li-a sẽ được trao đổi để lấy vàng và phần thưởng. Từ đây đến đó, nếu quan tổng trấn phạm sai lầm, họ cũng không có quyền làm gì cả vì theo truyền thống, phải tôn kính gia đình đang cai trị.
Ngoài xa, ở cửa vào thung lũng, số quân As-xi-ri bắt đầu tăng lên.
Quan lãnh binh lo lắng, nhưng ông không được cả quan tổng trấn lẫn thầy tư tế ủng hộ. Ông bắt buộc phải cho lính tráng luyện tập thường xuyên vì ông biết rằng lính của ông , cũng như tổ tiên họ, không có kinh nghiệm trận mạc. Chiến tranh đối với Ak-ba thuộc về quá khứ, và những chiến thuật họ đã học được bị những kỹ thuật và vũ khí mới của các nước làm cho trở nên lạc hậu.
Ak-ba luôn đàm phán tìm kiếm hòa bình, quan tổng trấn xác quyết. Không phải lần nầy chúng ta sẽ bị chiếm đóng. Để cho các nước khác đánh nhau: chúng ta có một vũ khí lợi hại hơn nhiều: tiền. Khi họ đã tàn sát nhau xong , chúng ta sẽ vào thành phố của họ và bán sản phẩm của chúng ta.”
Quan tổng trấn thành công trong việc trấn an dân chúng về vấn đề quân đội Át-xi-ri. Nhưng tiếng đồn về người Ít-ra-en lôi kéo sự chúc dữ lên Ak-ba vẫn râm ran. E-li-a là một vấn đề càng ngày càng trầm trọng thêm.

Một buổi chiều, tình hình sức khỏe của thằng bé xấu đi. Nó không còn đứng được nữa, không còn nhận biết những người đến thăm. Trước khi mặt trời lặn, E-li-a và người đàn bà quỳ gối gần giường của nó.
- Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài đã làm lạc hướng những mũi tên của quân lính và đã đưa con đến tận đây, xin cho em bé nầy được lành bệnh. Nó không chịu trách nhiệm về tội của con và của cha mẹ nó. Lạy Chúa, xin cứu nó.”
Em bé gần như không nhúc nhích; môi em trắng bệch, hai mắt mờ đục.
- Hãy cầu xin với Thiên Chúa độc nhất của ông đi, người đàn bà van nài. Vì duy nhất chỉ có người mẹ nhận biết lúc nào hồn con mình đang lìa khỏi xác.”
E-li-a muốn nắm tay bà ,nói với bà rằng bà không phải là người duy nhất, và rằng Thiên Chúa toàn năng có lẽ sẽ nghe lời bà cầu xin. Ông là ngôn sứ, ông đã chấp nhận sứ vụ nầy trên bờ suối Ki-rít và từ nay các thiên thần túc trực bên cạnh ông.
- Tôi không còn nước mắt, bà mẹ nói thêm. Nếu Ngài không có lòng khoan dung, nếu Ngài cần một mạng người, vậy thì xin Ngài mang tôi đi và để cho con trai tôi dạo chơi trong thung lũng và trên đường phố Ak-ba.
E-li-a làm hết sức mình để tập trung vào lời cầu nguyện; nhưng sự đau khổ của người mẹ quá lớn lao như thể nó choán hết căn phòng và tràn ra mọi nơi, tường nhà, cửa nẻo.
Anh đụng vào thằng bé. Thân nhiệt nó cũng không cao hơn các ngày hôm trước, đó là dấu chỉ xấu. Buổi sáng, thầy tư tế đã đi qua nhà và như ông đã làm hai tuần nay, ông đã đặt nhiều miếng thuốc cao thực vật trên mặt và ngực thằng bé. Những ngày gần đây, mấy phụ nữ Ak-ba mang thuốc đến. Đây là những vị thuốc gia truyền từ đời nầy qua đời khác và công hiệu đã chứng tỏ qua nhiều lần chữa lành bệnh. Mọi buổi chiều, họ tập trung dưới chân Ngọn Núi Thứ Năm và dâng lễ xin cho linh hồn đừng rời xa thân xác cậu bé.
Cảm động vì những việc nầy, một thương nhân Ai-cập đang đi ngang qua thành phố cũng biếu không cậu bé một thứ thuốc bột màu đỏ đắt giá để trộn vào thức ăn cho em. Theo truyền thuyết, bí mật để chế tạo loại bột nầy đã được chính các vị thần truyền lại cho các thầy thuốc Ai-cập.
Trong lúc đó, E-li-a cầu nguyện không ngừng.
Nhưng không có tiến bộ gì cả, tuyệt đối không.
"Tôi biết tại sao họ đã để cho ông ở lại đây”, người đàn bà nói với giọng thì thào của một người đã nhiều ngày đêm không ngủ.”Tôi biết cái đầu ông đã được treo giá và ngày nào đó, ông sẽ bị trả về Ít-ra-en đổi lấy vàng. Nếu ông cứu được con tôi, tôi thề trước thần Ba-an và các thần của Ngọn Núi Thứ Năm rằng ông sẽ không bao giờ bị bắt. Tôi biết những lối đi mà bây giờ người ta quên mất và tôi sẽ bày cho ông cách trốn đi khỏi Ak-ba mà không ai hay biết.”
E-li-a im lặng. 
- Hãy cầu xin Thiên Chúa độc nhất của ông đi, người đàn bà lại nói. Cầu xin Ngài cứu con tôi đi. Nếu Ngài cứu con tôi, tôi thề tôi sẽ bỏ thần Ba-an để tin vào Ngài. Nói với Thiên Chúa của ông là tôi đã cho ông trú ngụ khi ông cần, và tôi đã làm đúng như những gì Ngài đã yêu cầu.
Elia cầu nguyện luôn và ông cầu xin hết sức mình. Đúng lúc nầy, đứa bé nhúc nhích.
-Con muốn ra khỏi đây” cậu nói giọng yếu ớt.
- Đôi mắt người mẹ sáng lên vì vui mừng và hai giòng nước mắt chảy xuống.
- Đến đây con trai. Đi đâu tùy ý con, làm gì tùy con thích.”
E-li-a muốn bồng cậu bé trong tay, nhưng nó từ chối.
- Con muốn ra một mình”
Nó từ từ đứng dậy rồi bước đi. Sau vài bước, nó té xuống đất.
E-li-a và bà góa chạy lại. Đứa bé đã chết.
Trong một lúc, cả hai người không biết nói gì. Rồi người đàn bà òa lên khóc.
Ôi vô phúc, thần thánh đã bắt con tôi đi rồi! Vô phúc cho người đàn ông đã đem tại họa tới nhà nầy! Con ơi, con trai độc nhất của mẹ ơi! Tôi đã vâng theo ý muốn của các thần, tôi đã hào phóng với người xa lạ và rồi con tôi phải chết!”
Láng giềng nghe tiếng kêu khóc chạy đến thấy đứa bé nằm trên nền nhà. Người đàn bà tiếp tục kêu gào ,tay đấm vị ngôn sứ Ít-ra-en đang đứng bên cạnh bà -hình như ông ta mất hết khả năng hành động và không làm gì để tự vệ. Trong khi các bà cố gắng trấn an bà góa, các ông kéo tay E-li-a đưa đến quan tổng trấn.
Người nầy đã lấy oán trả ơn. Ông ta đã gieo rắc một thứ ma thuật vào trong nhà bà góa làm cho con bà chết. Chúng ta đang cho một tên bị thần thánh nguyền rủa cư ngụ.”
Người Ít-ra-en khóc:” Lạy Chúa tôi, ngay cả với bà góa đã rộng lượng với con, Ngài cũng gieo cho bà điều dữ sao? Ông thầm nghĩ. Nếu Ngài đã làm cho con bà ta phải chết, chính là vì con đã không hoàn thành sứ mệnh mà ngài đã trao phó, tội con đáng chết.”

Chiều tối, hội đồng thành phố Ak-ba tập hợp dưới sự chủ trì của thầy tư tế và quan tổng trấn. E-li-a bị đưa ra xét xử.
- Ông đã lấy oán trả ơn, do đó ta kết ngươi vào tội chết” quan tổng trấn tuyên bố.
- Dù cái đầu ngươi đáng giá một đống vàng, chúng ta không thể chọc giận các vị thần trên Ngọn Núi Thứ Năm. Nếu không, sau đó sẽ không còn ai trên thế gian nầy có thể mang lại bình an cho thành nầy”, vị tư tế nói thêm.
E-li-a cúi đầu. Anh xứng đáng với tất cả các hình phạt mà anh có thể chịu đựng được vì Thiên Chúa đã bỏ rơi anh.
Thầy tư tế ra lệnh:” Mầy sẽ leo lên Ngọn Núi Thứ Năm. Mầy phải xin lỗi các vị thần đang giận dữ. Các ngài sẽ cho lửa từ trời thiêu đốt mầy. Nếu các ngài không làm như thế là các ngài muốn rằng công lý sẽ được chính bàn tay chúng ta đây thực hiện: chúng ta sẽ đợi ngươi trở về và ngày mai, mầy sẽ bị hành hình đúng theo nghi thức”.
E-li-a biết rõ các buổi hành hình theo nghi thức: người ta móc tim tử tội rồi chặt đầu. Theo tập truyền, một người không có tim thì không được vào Thiên đàng.
Tại sao Chúa lại chọn con cho việc nầy, Chúa ơi? Anh kêu lớn tiếng, anh tin chắc rằng những người đang đứng chung quanh anh không biết gì về số phận Chúa đã dành cho anh.”Chúa không thấy là con không thể hoàn thành công việc Chúa giao sao?”
Anh không nghe tiếng trả lời.

Đàn ông và đàn bà Ak-ba đi thành đoàn theo sau nhóm lính canh đang dẫn người Ít-ra-en đến dưới chân Ngọn Núi Thứ Năm. Họ la ó và ném đá ông. Lính canh phải chật vật lắm mới ngăn được đám đông. Sau nửa giờ đi bộ, đoàn người đã đến chân núi thánh.
Đoàn người dừng lại trước những bàn thờ đá trên đó người ta thường đặt các lễ vật, ăn các lễ vật, đọc các lời cầu xin và cầu kinh. Tất cả họ đều biết câu chuyện những người khổng lồ sống ở đó và biết rõ những người vi phạm luật cấm đã bị lửa từ trời thiêu đốt như thế nào. Những lữ khách đi con đường băng qua thung lũng ban đêm quả quyết đã nghe thấy tiếng cười của các thần nam, nữ. Cho dù không ai biết chắc điều đó, cũng không ai dám làm phật lòng các thần.
- Đi đi, ngươi đã làm cho một đứa bé phải chết xứng đáng nhận hình phạt ghê gớm nhất.” Dùng ngọn giáo đẩy người E-li-a, một tên lính canh la lên.
E-li-a bước chân vào vùng đất cấm và bắt đầu trèo lên sườn núi. Khi đã đi khá xa, không còn nghe tiếng la ó của dân thành Ak-ba, anh ngồi xuống trên một tảng đá và khóc: từ chiều hôm đó, trong xưởng mộc, nơi anh đã thấy ánh sáng nhảy múa trong bóng tối, anh chỉ có mang lại bất hạnh cho người khác. Thiên Chúa đã đánh mất những người phát ngôn bên Ít-ra-en và tôn giáo của người Phê-ni-xy được củng cố. Đêm đầu tiên anh đến gần suối Kê-rít, E-li-a đã tin rằng Thiên Chúa chọn mình để trở thành một vị tuẫn đạo, như đã xảy ra với nhiều người khác.
Trái lại, Chúa đã gởi đến một con quạ- một con chim xấu xí-để nuôi sống anh cho đến khi suối Kê-rít khô cạn. Tại sao là một con quạ mà không phải là một con bồ câu, hay một thiên thần? Tất cả những cái đó chỉ là ảo tưởng của một thằng người muốn dấu giếm nỗi sợ, hay là vì cái đầu phải phơi nắng quá lâu? Bây giờ, E-li-a không còn tin vào gì nữa: có lẽ cái Xấu đã tìm ra được một công cụ mà chính anh là công cụ đó. Tại sao thay vì trở về xứ và giải quyết một lần cho xong với bà hoàng hậu đã làm cho dân tôi sai lạc quá nhiều, Chúa lại sai tôi đến Ak-ba?
Anh đã cảm thấy mình là một thằng hèn, nhưng anh tuân lệnh. Anh đã phấn đấu để hội nhập với dân tộc xa lạ, hiền hòa, nhưng văn hóa của họ hoàn toàn xa lạ đối với anh. Lúc anh ngỡ đã hoàn thành sứ mệnh, thằng bé lại chết.
- Tại sao là tôi?” anh tự hỏi.
Anh đứng lên, tiếp tục bước đi vào trong màn sương bao phủ đỉnh núi. Anh có thể lợi dụng sương mù để trốn tránh những người đuổi bắt anh, nhưng để làm gì? Anh chán chạy trốn lắm rồi, anh biết anh sẽ không bao giờ tìm được một chổ đứng trong thế gian nầy. Cho dù lần nầy anh trốn được, nhưng tai họa sẽ theo anh đến một thành phố khác rồi những bi kịch khác cũng sẽ tái diễn. Anh sẽ mang theo mình đi bất cứ nơi đâu hình bóng của những người đã chết. Thà họ moi tim anh, chặt đầu anh còn hơn.
Anh lại ngồi, lần nầy, ngay chính giữa đám sương mù. Anh quyết định đợi một lát, để cho mọi người bên dưới tin rằng anh đã trèo lên đến đỉnh núi, rồi anh sẽ trở lại Ak-ba và chịu hành hình.
“ Lửa từ trời.” Nhiều người đã chết vì lửa đó, và E-li-a biết rằng mình được Thiên Chúa sai đến. Những đêm không trăng sao, ánh lửa đó chiếu qua các tầng trời, xuất hiện rồi bất chợt biến mất. Có nóng không? Có lẽ mình sẽ bị giết chết trong nháy mắt, không đau đớn.

Đêm xuống và sương tan. Anh nhìn thấy thung lũng bên dưới, những ánh đèn ở Ak-ba và trại quân As-xi-ri nhấp nháy. Anh nghe tiếng chó sủa và tiếng hát của quân lính.
- Tôi đã sẵn sàng, anh tự bảo. Tôi đã chấp nhận là một ngôn sứ và tôi đã cố gắng hết sức mình. Nhưng tôi đã thất bại và bây giờ Thiên Chúa cần có một người khác.
Ngay lúc đó. Một luồng sáng đến gần anh.
“Lửa từ trời!”
Tuy nhiên , lửa đó không chạm vào anh. Một giọng nói cất lên:
- Ta là sứ thần của Thiên Chúa.”
E-li-a quì gối, mặt sát đất.
- Tôi đã gặp ngài nhiều lần, và tôi đã vâng lời thiên thần của Thiên Chúa và người làm cho tôi thành kẻ gieo rắc tai ương khắp những nơi tôi đến”, E-li a thưa.
Nhưng thiên sứ nói:
- Khi ngươi trở về thành phố, cầu nguyện ba lần để thằng bé sống lại. Lần thứ ba, Chúa sẽ nghe lời ngươi.
- Tại sao tôi phải làm như thế?
- Vì danh Thiên Chúa.
- Dù gì đi nữa, tôi nghi ngờ chính bản thân mình, tôi không xứng đáng với sứ mệnh của mình, E-li-a đáp lại.
- Ai cũng có quyền nghi ngờ sứ mệnh của mình và thỉnh thoảng thất bại. Điều duy nhất họ không được làm là quên mất sứ mệnh của mình. Ai không nghi ngờ bản thân mình thì không xứng đáng-vì nó mù quáng tin vào giá trị bản thân và phạm tội kiêu căng. Phúc cho ai phải trải qua những lúc nghi ngại.
- Có lúc, ngài có thể thấy là tôi không còn tin ngài là sứ thần của Thiên Chúa nữa.
- Đi đi, làm điều ta đã truyền.

Thời gian trôi qua, rồi E-li-a xuống núi. Lính canh đợi anh ở gần bàn thờ đá, nhưng đám đông đã quay về Ak-ba.
Anh tuyên bố:” Tôi sẵn sàng chết. Tôi đã cầu xin các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm tha thứ và họ bắt buộc tôi trước khi hồn rời khỏi xác, tôi phải đến nhà bà góa đã cho tôi ở nhờ và xin bà thương xót linh hồn tôi.”
Lính canh dẫn anh đến trước thầy tư tế, họ lặp lại yêu cầu của E-li-a.
Tư tế nói:” Ta chấp nhận. Vì mầy đã xin các thần tha tội, mầy cũng phải xin bà góa tha thứ. Để mầy khỏi chạy trốn, bốn người lính sẽ đi theo mầy. Nhưng mầy đừng mong là bà ta sẽ xin tha cho mầy. Lúc bình minh, chúng ta sẽ xử mầy tại trung tâm quảng trường.”
Thầy tư tế muốn hỏi anh về những gì anh đã thấy trên kia. Nhưng trước mặt những người lính, câu trả lời có thể không hay. Ông quyết định không nói gì nữa. Ông nghĩ rằng, việc E-li-a công khai xin lỗi là một ý hay, sẽ không còn ai nghi ngờ quyền lực của các vị thần trên Ngọn Núi Thứ Năm nữa. E-lia và mấy người lính đi vào trong con hẻm tồi tàn, nơi mà ông đã cư ngụ trong nhiều tháng. Cửa chính, cửa sổ nhà bà góa mở rộng để -theo như tục lệ- linh hồn con bà có thể đi đến nơi cư ngụ của các thần. Thi hài em bé được đặt ngay giữa phòng, có láng giềng ngồi canh chung quanh.
Khi thấy người Ít –ra-en xuất hiện, mọi người đều kinh hoàng.
- Đưa hắn ta ra khỏi đây! họ la lên với lính canh. Tai họa mà người nầy mang lại chưa đủ sao? Con người nầy xấu xa đến độ các vị thần trên Ngọn Núi Thứ Năm cũng không muốn vấy bẩn tay vì máu của nó!
- Để cho chúng tôi giết nó! một người khác la lên. Chúng tôi sẽ làm ngay bây giờ, không cần đợi hành quyết theo nghi thức!”
Chịu đựng những cú đấm, tát, nhưng hai tay được tự do, E-li-a chạy đến gần bà góa đang ngồi khóc trong góc phòng.
- Tôi có thể làm cho con bà từ cõi chết sống lại. Xin cho tôi đụng vào nó. Chỉ một lát thôi.”
Bà góa không ngước đầu lên.
- Tôi xin bà, ông nài nỉ. Cho dù đó là ân huệ cuối cùng mà bà ban cho tôi trong cuộc đời nầy, xin cho tôi một cơ hội để tôi đền đáp lòng bao dung của bà.”
Mấy người đàn ông bắt anh lại, kéo anh ra. Nhưng E-li-a chống cự quyết liệt, hết sức mình, cầu xin người ta để cho anh chạm vào đứa bé một chút.
Mặc cho anh chống cự, người ta đã đưa anh ra khỏi cửa.”Thiên sứ của Chúa, người ở đâu? Anh la lên.
Mọi người bỗng khựng lại. Bà góa đến cầm tay anh và đưa anh đến bên thi hài con bà rồi kéo tấm chăn phủ ra.
- Đây là máu của máu tôi, bà nói. Máu nầy sẽ đổ xuống đầu cha mẹ ông nếu như ông không hoàn thành điều ông mong muốn.”
E-li-a lại gần chạm vào cậu bé.
- Khoan đã, bà góa nói. Hãy cầu xin Chúa của ông cho lời nguyền của tôi thành hiện thực.”
Tim E-li-a đập rộn ràng, nhưng anh tin vào lời thiên sứ.
- Máu em bé nầy sẽ đổ trên đầu cha mẹ tôi, các anh em tôi và trên con trai, con gái họ nếu tôi thất bại.”
Rồi, mặc cho bao nghi ngại, tội lỗi và lo sợ, ông cầm tay bà góa, dẫn bà vào phòng trên, nơi ông ở. Rồi ông nhìn lên trời mà nói:
- Lạy Chúa, Chúa có muốn gây tai họa cho người đàn bà đã tiếp đón con trong nhà bà, đến nỗi Ngài làm cho con bà phải chết chăng?
Ông áp mình vào đứa bé ba lần và cầu xin Chúa:”Ôi Thiên Chúa của con, xin cho hơi thở trở lại với em bé nầy!”

Trong một lúc, không có gì xảy ra. E-li-a thấy lại lúc mình còn ở Ga-la-ad, trước mặt tên lính đang giương cung nhắm vào tim anh. Anh biết rằng, rất nhiều lần, số mạng một con người không ăn nhập gì với những điều họ tin cũng như lo sợ. Anh cảm thấy bình an và tin tưởng như chiều hôm xưa, vì anh biết, dù điều gì xảy ra, cũng có mục đích. Trên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm, thiên thần đã gọi đó là “ vinh quang Thiên Chúa”. Anh hy vọng một ngày nào đó sẽ hiểu được rằng Tạo Hóa cũng cần có con người để biểu lộ vinh quang Ngài.
Chính lúc đó, đứa bé mở mắt. Nó hỏi:
- Mẹ con đâu?”
- Dưới lầu, bà đang đợi em, E-li-a mỉm cười trả lời.
- Con đã có một giấc mơ kỳ lạ. Con đi trong một đường hầm đen ngòm với tốc độ còn nhanh hơn cả con ngựa đua nhanh nhất Ak-ba. Con đã gặp một người mà con biết đó là cha mình, cho dù con chưa bao giờ nhìn thấy ba. Rồi con đi đến một nơi kỳ diệu mà con rất muốn được ở lại. Nhưng một người khác, con không biết ông ta, nhưng ông ta có vẻ tốt và ân cần với con- đã nhẹ nhàng bảo con quay trở lại. Con muốn đi xa hơn, nhưng ông đánh thức con dậy.”
Em bé có vẻ buồn. Nơi mà em đã đến có lẽ rất đẹp.
- Đừng để con một mình, ông đã đem con về từ một nơi mà con biết là con được che chở.
- Xuống nhà thôi, E-li-a nói. Mẹ em muốn gặp em.”
Em bé muốn đứng lên, nhưng nó yếu quá, không bước đi được. E-li-a đỡ cậu và cả hai đi xuống nhà.
Bên dưới, mọi người hình như rất sợ hãi.
- Tại sao có đông người ở đây vậy? Em bé hỏi.
Trước khi E-li-a lên tiếng trả lời, mẹ em đã ôm em vào lòng,hôn em và khóc.
- Họ đã làm gì mẹ vậy? Tại sao mẹ khóc?
- Con ơi, mẹ không khóc, bà mẹ vừa trả lời vừa lau nước mắt. Mẹ chưa bao giờ hạnh phúc như lúc nầy.”
Bà góa quỳ gối và bắt đầu la lên:
- Bây giờ, tôi biết ông là người của Thiên Chúa! Lời Chúa xuất phát từ miệng ông!’
E-li-a cầm tay bà và xin bà đứng lên.
Hãy thả người nầy ra! bà nói với quân lính. Anh ta đã chống lại cái xấu đã ập xuống nhà tôi!”

Những người có mặt ở đó không thể tin nổi vào mắt mình. Một cô họa sĩ hai mươi tuổi đến quì cạnh bà góa. Rồi từ từ, mọi người đều bắt chước cô, ngay cả những người lính có trách nhiệm đưa E-li-a đi thọ hình.
- Xin mọi người đứng lên, ông cầu xin. Hãy ca tụng Thiên Chúa. Tôi chỉ là một đầy tớ của ngài, có lẽ là đầy tớ hèn mọn nhất.”
Nhưng mọi người vẫn quì gối, đầu cúi xuống.
Anh nghe ai đó nói:
- Ông đã đàm đạo với các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm. Và bây giờ, ông làm phép lạ.
- Trên đó không có thần thánh gì cả, ông đáp lại. Tôi đã thấy một sứ thần của Thiên Chúa và ngài đã lệnh cho tôi làm việc nầy.
- Ông đã gặp thần Ba-an và các anh em ngài? một người chen vào.

E-li-a bước qua đám người đang quì gối và đi ra ngoài đường. Tim anh như dính vào ngực, như thể anh đã không làm đúng như lời thiên sứ chỉ bảo.” Cho người chết sống lại để làm gì, nếu như người ta không hiểu được quyền năng nầy từ đâu ra?” Thiên sứ đã yêu cầu ông kêu tên Chúa ba lần, nhưng ngài đã không chỉ cho ông phải giải thích phép lạ thế nào cho đám đông kia. Anh tự nhủ:”Hay là như những ngôn sứ khác, ta thỏa mãn vì cái hư ảo?
Anh nghe lời thiên thần bản mệnh, người mà anh thường đàm đạo lúc còn bé:
- Hôm nay, anh đã gặp một sứ thần của Chúa.
- Vâng. E-li-a trả lời. Nhưng thiên sứ không nói chuyện với con người. Họ chỉ truyền lệnh của Chúa mà thôi.
- Hãy sử dụng quyền năng của mình, thiên thần khuyên.
E-li-a không hiểu ý thiên thần muốn gì.” Tôi không có được quyền năng từ Thiên Chúa.”
- Mọi người đều có. Mọi người đều có quyền năng từ Thiên Chúa, nhưng không ai sử dụng cả.
Và thiên thần nói thêm:
- Từ nay cho đến ngày ngươi được trở về quê hương, sẽ không còn cho ngươi một phép lạ nào cả.
- Vậy khi nào thì tôi được về?
- Thiên Chúa cần ngươi để tái lập Ít-ra-en. Người sẽ được trở về khi nào ngươi biết tái thiết.”
Rồi thiên thần không nói gì nữa.


PHẦN THỨ HAI

Thầy tư tế cầu xin với thần Mặt trời đang mọc lên và xin thần Bão cũng như thần các Súc vật thương xót những người điên. Sáng hôm đó, người ta đã kể cho ông nghe rằng E-li-a đã đem con bà góa trở về từ cõi chết.
Cả thành kích động và kinh sợ. Họ tin rằng tên Ít-ra-en đã nhận được quyền năng từ các thần của Ngọn Núi Thứ năm, đến nỗi từ bây giờ, khó mà xử với anh nầy.” Rồi cũng đến lúc” , thầy tư tế tự nhủ.
Các thần sẽ cho ông có cơ hội tiêu diệt con người nầy. Dẫu sao, cơn giận của các thần còn có một nguyên nhân khác và sự hiện diện của quân đội As-xi-ri ở lối vào thung lũng là một dấu chỉ. Tại sao nhiều thế kỷ hòa bình lại chấm dứt như thế nầy? Ông biết câu trả lời: vì một phát minh của By-blos. Đất nước ông đã phát triển một loại văn tự mà mọi người đều có thể học- kể cả những người không được chuẩn bị để dùng nó. Bất kỳ ai cũng có thể học được cách nhanh chóng, và đó sẽ là ngày tàn của nền văn minh.
Thầy tư tế biết rằng, trong số những vũ khí phá hoại mà con người phát minh ra, cái kinh khủng nhất, mạnh mẽ nhất là lời nói. Dao găm và giáo để lại vết máu; cung tên bị thấy từ xa; thuốc độc người ta cũng nhận ra và tránh đi. Nhưng lời nói có thể tàn phá mà không để lại dấu vết. Nếu các nghi lễ thánh thiêng bị phổ cập cho mọi người, nhiều người sẽ dùng nó để cố gắng thay đổi vũ trụ, và thần thánh sẽ bị làm phiền. Cho đến nay, chỉ có giai cấp tư tế nắm giữ ký ức của cha ông- thường được truyền khẩu với điều kiện là phải thề giữ bí mật. Hay là phải mất nhiều năm đèn sách mới mò mẫm được thứ ký tự mà người Ai-cập đã phổ biến ra toàn thế giới; do đó, chỉ duy nhất những người được chuẩn bị kỹ càng, ký lục hay tư tế là có thể trao đổi thông tin.
Nhiều nền văn hóa khác cũng có cách riêng để ghi lại lịch sử, nhưng các phương pháp đó quá phức tạp đến nỗi không mấy ai sống ngoài vùng đó quan tâm học hỏi . Phát minh của Bi-blos có cơ nguy gây ra những tác động đáng kể: bất kỳ nước nào cũng sử dụng được, bất kể họ nói ngôn ngữ gì. Ngay cả người Hy Lạp, những người thường bỏ qua những gì không có xuất xứ từ quê hương họ, cũng đã dùng cách ký tự của Bi-blos và sử dụng thuần thục trong thương mại.Vì họ là những chuyên gia về tiếp thu cái mới, họ đã đặt tên cho nó theo tiếng hy lạp là alphabet (bảng chữ cái).
Những bí mật của văn minh được lưu giữ từ nhiều thế kỷ nay có nguy cơ bày ra ánh sáng. So với việc phạm thượng mà E-li-a làm: đưa một người trở về từ bên kia bờ sự chết như người Ai cập thường làm thì không có gì đáng kể.
“ Chúng ta bị phạt vì chúng ta không thể giữ gìn cẩn thận điều linh thiêng, ông ta nghĩ. Quân Á-xi-ri đang ở ngoài cửa thành, chúng sẽ băng qua thung lũng và tàn phá nền văn minh của tổ tiên chúng ta.”
Và họ sẽ phá bỏ bảng chữ cái. Thầy tư tế biết rằng, sự hiện diện của quân thù không phải là ngẫu nhiên. Đó là cái giá phải trả. Thần thánh đã sắp xếp mọi sự để không ai hình dung ra rằng họ là người thực sự phải chịu trách nhiệm; họ đã trao quyền cho một tổng trấn chỉ lo lắng chuyện làm ăn hơn là xây dựng quân đội, việc đó đã gợi lên lòng tham của người As-xi-ri, làm cho không có mưa và gởi đến đây một tên ngoại giáo để chia rẽ dân thành. Rồi đây, trận chiến cuối cùng sẽ bắt đầu. Ak-ba sẽ tiếp tục tồn tại, nhưng nguy cơ bảng chữ cái mang lại sẽ mãi mãi bị tận diệt trên mặt đất.
Thầy tư tế lau chùi cẩn thận hòn đá đánh dấu nơi mà xưa kia, một lữ khách đã tìm ra nơi mà trời đã chỉ định để xây dựng thành phố. “ Thành phố đẹp quá!” ông thầm nghĩ. Các phiến đá là hình ảnh của thần linh -cứng, trường tồn, vượt qua mọi biến cố và không cần biện minh cho sự hiện hữu của mình. Truyền thống kể lại rằng trung tâm thế giới được đánh dấu bằng một phiến đá và khi còn bé, ông đã nghĩ đến việc đi tìm viên đá. Ông đã nuôi dưỡng mơ ước đó cho đến nay. Nhưng khi nhìn thấy đội quân As-xi-ri dưới thung lũng, ông biết rằng giấc mơ của ông sẽ không bao giờ được thực hiện.
“ Không quan trọng. Số phận đã muốn rằng thế hệ chúng ta phải hy sinh vì đã xúc phạm đến thánh thần. Có nhiều điều không thể tránh khỏi trong lịch sử nhân loại, chúng ta đành phải chấp nhận.
Ông hứa sẽ vâng theo lời các vị thần: ông sẽ không ngăn cản chiến tranh.
“Có lẽ chúng ta đã đi đến thời cùng tận. Không có cách gì để tránh các cơn khủng hoảng ngày càng nhiều.”
Thầy tư tế cầm gậy và ra khỏi ngôi đền thờ nhỏ; ông có hẹn với ông lãnh binh của Ak-ba.
Ông đến gần tường thành thì gặp E-li-a.
- Thiên Chúa đã cho một em bé từ cõi chết sống lại, người Ít-ra-en nói. Cả thành phố tin đó là quyền năng của tôi.
- Có thể đứa bé chưa chết, thầy tư tế đáp lại. Việc đó đã xảy ra nhiều lần rồi; tim ngừng đập, rồi đập trở lại. Hôm nay, cả thành phố nói về việc đó. Ngày mai, người ta lại nhớ rằng các vị thần đang ở gần và có thể nghe lời họ cầu xin. Khi đó họ sẽ câm miệng. Tôi phải đi đây, vì người As-xi-ri chuẩn bị chiến tranh.
- Thưa ngài, tôi có cái nầy nói với ngài: sau phép lạ đêm qua, tôi ra ngủ ngoài thành vì tôi cần một chút yên tĩnh. Khí đó vị thiên sứ mà tôi đã thấy trên Ngọn Núi Thứ năm lại đến với tôi và nói:” Ak-ba sẽ bị tàn phá vì chiến tranh.
- Các thành phố không thể bị hủy hoại. Chúng sẽ được xây dựng lại bảy mươi bảy lần vì các thần biết họ đặt để chúng ở đâu và họ cần chúng phải ở đó.”

Quan tổng trấn đến gần với một nhóm người phụ tá:
- Ông nói gì? Ông hỏi.
- Thưa ông, tìm kiếm hòa bình, E-li-a nói.
- Nếu ông sợ, hãy quay về quê hương đi, thầy tư tế giọng khô khan.
- Je-za-ben và vua đang chờ các ngôn sứ đang bỏ trốn để giết họ, quan tổng trấn nói. Nhưng ông hãy giải thích cho tôi vì sao ông có thể trèo lên Ngọn Núi Thứ Năm mà không bị lửa từ trời thiêu cháy?”
Thầy tư tế cắt ngang câu chuyện: quan tổng trấn có ý định thương lượng với quân As-xi-ri và có thể ông ta sẽ dùng E-li-a cho mục đích đó.
- Đừng nghe người đó, thầy tư tế nói với quan tổng trấn. Hôm qua, khi người ta dẫn ông ta đến cho tôi để xử lý, tôi đã thấy ông ta khóc vì sợ.
- Tôi khóc vì điều xấu xa mà tôi tưởng là tôi đã làm. Vì tôi sợ Thiên Chúa và sợ cả chính tôi. Tôi không trốn khỏi Ít-ra-en và tôi sẵn sàng quay về đó khi Chúa tôi cho phép. Tôi sẽ đánh bại bà hoàng hậu xinh đẹp và đức tin của Ít-ra-en sẽ vượt qua cơn thử thách nầy.
- Phải có trái tim thật chai đá mới cưỡng lại được vẽ đẹp của Je-za-ben, ông tổng trấn đùa. Nhưng trong trường hợp đó, chúng ta sẽ gởi đến một bà xinh đẹp hơn như chúng ta đã từng làm trước Je-za-ben.”
- Thầy tư tế nói đúng. Hai trăm năm trước, một công chúa của Sidon đã quyến rũ vị vua khôn ngoan nhất trong những người đã từng cai trị Ít-ra-en, vua Salomon. Bà đã xin ông ta cho xây một bàn thờ thờ nữ thần As-tác-tê và Solomon đã nghe lời. Vì việc phạm thượng nầy, Chúa đã cho quân đội các nước láng giềng nỗi lên chống lại Salomon và ông bị Chúa nguyền rủa. 
- Việc như thế cũng sẽ xảy ra với A-kap, chồng của Je-za-ben”, E-li-a thầm nghĩ. Chúa sẽ cho anh hoàn thành sứ mệnh lúc nào Chúa muốn. Nhưng tại sao lại phải cố gằng thuyết phục những người nầy? Họ cũng như những người anh thấy hôm qua, quì trên nền nhà bà góa, cầu khẩn các vị thần của Ngọn Núi Thứ Năm. Truyền thống không bao giờ cho phép họ nghĩ khác đi.
- Đáng tiếc là chúng tôi phải tôn trong luật “cư trú”, ông tổng trấn nói và xem ra ông ta đã quên những đề nghị của E-li-a về hòa bình.”Nếu không, chúng ta sẽ giúp Je-za-ben một tay trong việc tiêu diệt các tiên tri.
- Không phải vì thế mà ông tha chết cho tôi. Ông biết mạng sống tôi là một món đổi chác có giá, và ông muốn cho Je-za-ben cái thú vui được tự tay giết tôi. Nhưng, từ hôm qua- dân thành đã gán cho tôi những quyền lực kỳ diệu. Người ta cho rằng tôi đã gặp các vị thần trên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm; còn các ông, các ông không quan tâm đến việc có xúc phạm thần thánh hay không, nhưng các ông không muốn dân chúng nổi giận..”

Quan tổng trấn và thầy tư tế để mặc E-li-a độc thoại, họ tiến về phía tường thành. Chính vào lúc nầy, thầy tư tế quyết định sẽ giết tên tiên tri Ít-ra-en khi có cơ hội; người mà trước đây được xem như là món hàng trao đổi nay trở thành mối đe dọa.
Khi thấy họ đi xa, Elia vô cùng thất vọng. Ông làm được gì để giúp đỡ Thiên Chúa? Rồi ông bắt đầu la lớn trên quảng trường:
- Hỡi dân thành Ak-ba! Hôm qua tôi đã lên trên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm và tôi đã đàm đạo với các thần linh cư ngụ trên đó. Lúc trở về, tôi đã có thể đưa một đứa trẻ từ vương quốc sự chết trở về!”
Người ta xúm lại chung quanh ông. Câu chuyện đã truyền đi khắp thành. Quan tổng trấn và thầy tư tế dừng bước và trở lại xem chuyện gì đang xảy ra: tên ngôn sứ Ít-ra-en đang kể chuyện hắn ta đã thấy các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm thờ phụng một Thiên Chúa cao cả hơn.
- Tôi sẽ giết nó, thầy tư tế tuyên bố.
- Và dân chúng sẽ nổi lên chống lại chúng ta, quan tổng trấn đáp lại vì ông ta quan tâm tới những gì người nước ngoài nầy nói:”Tốt hơn là nên đợi cho đến lúc nó phạm sai lầm.
- Trước khi tôi xuống núi, các thần đã nhờ tôi đến giúp quan tổng trấn chống lại quân As-xi-ri, E-li-a nói tiếp. Tôi biết quan là người trọng danh dự và ngài muốn nghe lời tôi. Tuy nhiên, có nhiều người mong muốn chiến tranh xảy ra và họ không cho tôi tiếp cận họ.
- Ông Ít-ra-en nầy là một vị thánh, một ông già nói với quan tổng trấn. Chưa có ai lên được Ngọn Núi Thứ Năm mà không bị lửa từ trời thiêu cháy, nhưng người nầy đã làm được, rồi ông ta còn làm cho người chết sống lại.
- Tyr, Si-don và tất cả những thành phố xứ Phê-ni-xy có truyền thống sống hòa bình, một ông già khác nói. Chúng ta đã từng bị đe dọa nặng nề hơn, nhưng chúng ta đã vượt qua được.”
Những người bệnh và tàn tật tiến lại gần, băng qua đám người đến chạm vào áo của E-li-a và xin ông chữa lành bệnh.
- Trước khi khuyên can quan tổng trấn, hãy chữa cho người bệnh, thầy tư tế ra lệnh. Lúc đó chúng ta sẽ tin là các thần Ngọn Núi Thứ Năm đang ở với anh.”
E-li-a nhớ tới những gì thiên sứ đã báo hôm qua: anh chỉ có sức mạnh của một người bình thường.
- Người bệnh đang kêu cứu, thầy tư tế hối thúc. Chúng tôi chờ.
- Trước hết, chúng tôi sẽ tìm cách tránh chiến tranh. Sẽ có thêm rất nhiều người bệnh, người tàn tật nếu chúng ta không làm được điều đó.
Quan tổng trấn cắt ngang cuộc tranh cãi:” E-li-a sẽ đến với chúng tôi, anh ta đã được thần thánh linh ứng.”
Dù không tin là có thần thánh trên Ngọn Núi Thứ Năm, ông cần một đồng minh để thuyết phục dân chúng rằng hòa bình với người As-xi-ry là lối thoát duy nhất.

Khi họ đi gặp viên lãnh binh, thầy tư tế nói với E-li-a.
- Anh không tin những gì anh nói.
- Tôi tin hòa bình là con đường duy nhất. Nhưng tôi không tin là trên đỉnh núi có các thần ngự trị. Tôi đã lên đó.
- Anh đã thấy gì?
- Một thiên sứ của Thiên Chúa. Trước đây, tôi cũng đã thấy vị nầy hiện ra ở nhiều nơi mà tôi đi qua. Và chỉ có duy nhất một Chúa.
Thầy tư tế cười.
- Anh muốn nói là theo anh, vị thần làm ra bão cũng làm ra lúa mì sao, dù đó là những thứ hoàn toàn khác nhau sao?
- Ông đã quan sát Ngọn Núi Thứ Năm chưa? E-li-a hỏi. Từ mỗi góc nhìn, hình như nó khác nhau, tuy nhiên đó cũng là một ngọn núi duy nhất. Với tất cả những gì được tạo ra cũng thế: đó là nhiều khuôn mặt của cùng một Thiên Chúa.
Họ đến trên đỉnh của tường thành ở đó họ có thể thấy ngoài xa, doanh trại của quân địch. Trong thung lũng khô cằn, màu trắng của trại binh như đập vào mắt.
Thời gian trước, khi lính canh mới phát hiện quân As-xi-ri ở cuối thung lũng, các quân do thám đã quả quyết là đội quân nầy chỉ có nhiệm vụ trinh sát; viên lãnh binh đề nghị chỉ bắt họ cầm tù rồi bán như nô lệ. Quan tổng trấn đã chọn giải pháp khác: không làm gì cả. Ông dựa trên sự kiện là khi thiết lập được những quan hệ tốt đẹp với quân As-xi-ri, ông sẽ có thể mở thêm thị trường mới cho sản phẩm thủy tinh chế tạo tại Ak-ba. Hơn nữa, cho dù họ đến đây để gây chiến, người As-xi-ri biết rằng các thành nhỏ thường hàng phục những kẻ chiến thắng. Các tướng As-xi-ri đơn giản chỉ muốn đi ngang qua các thành nầy để đến Tyr, Si-don, nơi lưu trữ tài sản và kiến thức của cả đất nước.
Toán quân tiếp tục đồn trú ở ngõ vào thung lũng, và dần dần có thêm quân tiếp viện. Thầy tư tế xác quyết là ông biết nguyên do: thành phố có một nguồn nước, cái duy nhất trong vùng sa mạc nầy. Nếu quân As-xi-ri muốn tiến đánh Tyr và Si-don, chúng cần có nguồn nước nầy cho quân đội.
Trong một tháng, họ có thể đánh đuổi đám quân đó đi. Sau hai tháng, họ cũng còn có thể chiến thắng dễ dàng và thương lượng một cuộc lui quân trong danh dự cho As-xi-ri.
Họ sẵn sàng chiến đấu, nhưng họ không tấn công. Sau năm tháng, họ cũng còn có thể chiến thắng.” Quân As-xi-ri sắp tấn công vì họ đang chết khát” , quan tổng trấn tự nhủ. Ông yêu cầu quan lãnh binh xây dựng chiến thuật phòng ngự và thường xuyên huấn luyện quân sĩ để đề phòng một cuộc tấn công bất ngờ.
Còn ông, ông tập trung chuẩn bị hòa bình.

Sáu tháng trôi qua và quân đội As-xi-ri án binh bất động. Ở Ak-ba, căng thẳng lên cao trong những tuần đầu quân địch đến bây giờ đã biến mất; người dân trở lại sinh hoạt bình thường, nông dân ra đồng, thợ thuyền làm rượu, thủy tinh và xà phòng, các nhà buôn tiếp tục mua bán hàng hóa. Mọi người đều tin rằng vì Ak-ba không tấn công kẻ thù, cơn khủng hoảng sẽ được thu xếp thông qua thương lượng. Mọi người biết rằng, quan tổng trấn được các thần tư vấn và biết chọn lấy quyết định nào tốt nhất.
Khi E-li-a đến thành phố nầy, quan tổng trấn đã cho loan truyền tin về sự chúc dữ mà người ngoại quốc đó sẽ mang đến;bằng cách nầy, khi nguy cơ chiến tranh trở nên khó tránh khỏi, ông ta có thể kết án anh ta là nguyên nhân chính. Cư dân Ak-ba sẽ bị thuyết phục rằng cái chết của người Ít-ra-en nầy sẽ làm cho mọi việc trở lại bình thường. Quan tổng trấn lúc đó sẽ giải thích là bây giờ đã quá muộn để buộc người As-xi-ri ra đi; ông sẽ giết E-li-a và ông sẽ giải thích cho dân rằng hòa bình là giải pháp tốt nhất. Theo ý ông, các thương nhân –những người mong muốn có hòa bình-sẽ hối thúc những người khác chấp nhận ý kiến nầy.
Trong những tháng nầy, ông đã chống lại thầy tư tế và quan lãnh binh, hai người nầy đòi tấn công nhanh. Và các thần Ngọn Núi Thứ Năm đã không từ bỏ ông. Sau phép lạ đứa bé sống lại hôm kia, mạng sống của E-li-a bây giờ quý hơn cái chết của anh.
- Người ngoại quốc đó làm gì với anh? Quan lãnh binh hỏi.
- Ông ta là người được các thần cảm ứng, quan tổng trấn trả lời. Và anh ta sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp tốt nhất.”
Họ nhanh chóng thay đổi chủ đề nói chuyện.
- Hình như hôm nay số lều tăng lên phải không?
- Nó sẽ còn tăng lên ngày mai, quan lãnh binh đáp. Nếu chúng ta tấn công sớm khi họ chỉ là một đội tuần tra, có lẽ họ đã không trở lại.
- Anh nhầm. Một hay hai binh sĩ sẽ trốn thoát được và họ sẽ trở lại để trả thù.
- Khi ta hoãn vụ thu hoạch lại, trái cây sẽ hư thối, quan lãnh binh nhấn mạnh. Nhưng khi ta chần chừ không giải quyết khó khăn, khó khăn sẽ chồng chất.

Quan tổng trấn giải thích là hòa bình đã ngự trị trên Phê-nê-xy gần ba thế kỷ nay và đó là niềm hãnh diện lớn của dân chúng. Những thế hệ tương lai sẽ nói gì nếu giai đoạn thịnh vượng nầy bị gián đoạn?
- Gởi một sứ giả đến thương lượng với họ, E-li-a khuyên. Chiến binh giỏi nhất là người có thể biến thù thành bạn.
- Chúng ta không biết chính xác họ muốn gì. Ngay cả chúng ta không biết họ có muốn tiến đánh thành phố chúng ta hay không. Làm sao thương thuyết được?
-Có những dấu hiệu đe dọa. Một đạo quân không mất thì giờ đi diễn tập xa quê hương mình.”
- Hàng ngày, có những binh lính mới đến tăng cường-và quan tổng trấn ước lượng lượng nước mà họ cần dùng. Chỉ ít lâu nữa thôi, thành phố sẽ không chống cự được. 
- Chúng ta có thể tấn công bây giờ không? Thầy tư tế hỏi quan lãnh binh.
- Vâng, có thể. Chúng ta sẽ mất nhiều lính, nhưng thành phố sẽ được bảo toàn. Do đó, chúng ta phải quyết định nhanh.
- Thưa quan tổng trấn, chúng ta không nên làm như thế. Các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm đã xác quyết với tôi rằng chúng ta còn thời gian để tìm ra một giải pháp ôn hòa”, E-li-a nói.
Dù ông đã nghe cuộc đối đáp giữa thầy tư tế và người Ís-ra-en, ngài tổng trấn làm bộ như đồng ý. Với ông, việc Tyr và Si-don do người Phê-ni-xy, Ca-na-an hay As-xi-ri cai trị không quan trọng. Cốt yếu là thành phố tiếp tục được buôn bán các sản phẩm.
- Tấn công” thầy tư tế nhấn mạnh.
- Đợi một ngày nữa, ông tổng trấn yêu cầu. Tình hình có thể được giải quyết.
Chính ông phải quyết định nhanh về cách đối đầu với mối đe dọa từ người As-xi-ri. Ông đi xuống khỏi tường thành đi về hướng lâu đài và đề nghị người Ít-ra-en theo ông.
Dọc đường, ông quan sát người dân chung quanh ông: mục đồng đưa chiên ra đồng cỏ, nông dân ra đồng, cố gắng dành giật từ đất đai khô cằn chút lương thực cho họ và gia đình. Quân lính đang luyện tập với giáo dài, thương nhân vừa mới đến bày hàng giới thiệu trên quảng trường. Thật khó tin, quân As-xi-ri đã không chặn con đường đi qua thung lũng; thương nhân tiếp tục mang hàng hóa qua lại, trả thuế đi lại cho thành phố.
Bây giờ, chúng đã tập trung được một lực lượng hùng mạnh, tại sao họ không chận con đường? E-Li a hỏi.
- Đế quốc As-xi-ri cần nhiều sản vật nhập tại cảng Si-don và Tyr, tổng trấn trả lời. Nếu thương nhân bị đe dọa, nguồn cung sẽ cạn dần. Và hậu quả còn tệ hại hơn một thất bại quân sự. Phải có cách gì đó tránh chiến tranh.
- Vâng, E-li-a vồn vã. Nếu họ cần nước, chúng ta có thể bán cho họ.
Quan tổng trấn im lặng. Nhưng ông biết là ông có thể lợi dụng người Ít-ra-en nầy làm công cụ chống lại những người chủ chiến. Anh ta đã leo lên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm, anh ta đã thách đố các vị thần và, trong trường hợp thầy tư tế nhất quyết gây chiến, chỉ có E-li-a có thể đương đầu với ông ta. Ông đề nghị anh đi dạo một vòng để nói chuyện.

Thầy tư tế đứng lặng yên trên tường thành quan sát quân địch.
- Các thần có thể làm gì để ngăn cản quân xâm lăng? Quan lãnh binh hỏi.
- Tôi đã dâng lễ cho các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm. Tôi cầu xin người ta gởi đến cho chúng ta một thủ lĩnh can đảm hơn.
- Có lẽ chúng ta nên làm như Je-za-ben và giết các ngôn sứ. Tên Ít-ra-en hôm qua bị kết án tử hình, hôm nay, quan tổng trấn dùng hắn ta để thuyết phục dân thành chọn hòa bình.
Quan lãnh binh nhìn lên núi.
- Chúng ta có thể ám sát E-li-a và vận động binh lính để cô lập quan tổng trấn.
- Tôi sẽ ra lệnh giết E-li-a, thầy tư tế đáp. Nhưng với quan tổng trấn thì mình chẳng làm gì được: tổ tiên ông ta đã nắm quyền từ nhiều thế hệ. Ông nội ông ta từng là chủ của chúng ta, ông ta đã chuyển quyền các thần ban cho người cha rồi truyền lại cho ông ta.
- Tại sao truyền thống lại ngăn cản chúng ta lập lên một thủ lĩnh năng nổ hơn?
- Truyền thống hiện hữu để giữ thế giới trong trật tự. Nếu chúng ta chống lại, thế giới sẽ loạn.
Thầy tư tế nhìn chung quanh ông, trời, đất, núi, thung lũng, mỗi một yếu tố góp phần hoàn thành những gì đã chỉ định cho nó. Nhiều khi có động đất, ngày xưa-cũng như bây giờ, trời không mưa từ rất lâu. Nhưng các vì sao vẫn ở yên trên trời và mặt trời không rơi trên đầu người ta. Tất cả những cái đó là bởi vì từ ngày xảy ra Đại Hồng Thủy, con người biết rằng không thể thay đổi trật tự tự nhiên.

Ngày xưa, chỉ có Ngọn Núi Thứ Năm. Con người và các thần sống chan hòa với nhau, đi dạo trong vườn Địa đàng, nói chuyện và cười đùa. Nhưng con người đã phạm tội và các thần đã đuổi họ đi; và vì không biết đuổi họ đi đâu, các thần bèn tạo dựng nên đất đai quanh các ngọn núi để xô họ xuống đó, canh chừng họ và tìm cách làm cho họ luôn luôn thấp kém hơn những thần ở trên Ngọn Núi Thứ Năm.
Nhưng các thần đã để trống một con đường trở lại. Nếu con người đi trên con đường chính trực, họ sẽ được quay trở lại đỉnh núi. Và để cho con người không quên điều đó, các thần đã sai các tư tế và tổng trấn lưu truyền ý tưởng nầy trong dân chúng.
Tất cả mọi dân tộc đều có chung một niềm tin: nếu những gia đình đã được các thần xức dầu bị hạ bệ khỏi quyền lực, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Không ai còn nhớ vì sao các gia tộc đó được chọn, nhưng mọi người đều biết các gia tộc đó đều có quan hệ huyết thống với các thần. Ak-ba đã hiện diện từ nhiều trăm năm nay, và nó luôn luôn được cai trị bởi tổ tiên của quan tổng trấn hiện nay. Bị chiếm đóng nhiều lần bởi những kẻ áp bức và mọi rợ, nhưng rồi qua thời gian, những người chiếm đóng cũng ra đi. Lúc đó, trật tự được tái lập và mọi người lại sống như xưa.
Các tư tế được chỉ định gìn giữ lệnh truyền nầy: thế giới có một số mệnh và nó được điều phối bởi luật lệ. Bây giờ không phải là lúc đi tìm hiểu các thần. Từ nay, cần phải tôn trọng và làm theo ý các ngài. Các ngài cũng rất thất thường và hay nổi giận.
Không có nghi lễ cầu mùa, đất đai sẽ không cho hoa trái. Nếu quên mất một vài lễ tế, thành phố sẽ bị ôn dịch. Nếu làm cho thần Thời gian nổi giận, ngài sẽ làm cho lúa mì và con người ngưng phát triển.
- Hãy nhìn Ngọn Núi Thứ Năm, thầy tư tế nói với quan lãnh binh. Từ trên đỉnh núi, các thần cai trị thung lũng và bảo vệ chúng ta. Từ ngàn đời, các ngài đã có một kế hoạch cho Ak-ba. Người ngoại quốc kia sẽ bị giết hay buộc phải trở về quê hương, một ngày nào đó, quan tổng trấn sẽ biến mất, và con ông ta sẽ khôn ngoan hơn ông ta. Điều chúng ta đang sống chỉ là tạm bợ.
- Chúng ta cần một thủ lĩnh mới, quan lãnh binh lên tiếng. Nếu ông ta tiếp tục cai trị , chúng ta sẽ bị tàn sát.”
Thầy tư tế biết đó là điều các thần muốn, để chấm dứt nguy cơ do chữ viết By-blos gây ra. Nhưng ông không nói gì. Ông mừng thầm vì nhận thấy rằng, một lần nữa, quan tổng trấn –dù muốn hay không- đóng góp vào sự vận hành định mệnh của thế giới.

E-li-a đi dạo quanh thành phố, trình bày kế hoạch hòa bình của mình cho quan tổng trấn và được phong làm trợ lý quan tổng trấn. Khi họ đi đến giữa quảng trường, nhiều người bệnh tật khác tiến đến-nhưng anh tuyên bố là các thần trên Ngọn Núi Thứ năm đã cấm anh chữa bệnh. Cuối buổi chiều, anh quay về nhà người bà góa. Thằng bé đang chơi giữa đường và nó cảm ơn anh vì anh đã là công cụ của Thiên Chúa.
Người đàn bà đợi anh về ăn cơm. Anh kinh ngạc, có cả một bình rượu giữa bàn.
- Người ta mang lễ vật đến cảm ơn, bà nói.Và tôi cũng xin lỗi ông vì sự bất công của tôi.
- Bất công gì vậy? E-li-a ngạc nhiên. Bà không thấy rằng bà cũng là một phần trong chương trình của Thiên Chúa sao?”
Bà góa mỉm cười, mắt long lanh, và anh nhận ra là bà đẹp biết bao. Bà hơn anh có đến mười tuổi, nhưng anh dành cho bà lòng trìu mến sâu xa. Anh chưa quen với điều đó và anh sợ; anh nhớ lại đôi mắt của Je-za-ben và lời cầu xin khi anh bị đuổi ra khỏi lâu đài của A-kab -anh thích kết hôn với một phụ nữ Li-Băng.
- Cho dù cuộc đời tôi vô dụng, ít nữa, tôi còn có con tôi. Và người ta sẽ nhớ lại câu chuyện của tôi vì nó đã từ cõi chết sống lại., bà nói.
- Cuộc đời bà không vô ích. Tôi đến Ak-ba theo lệnh Thiên Chúa và bà đã tiếp đón tôi. Nếu ngày sau người ta nhớ đến chuyện con trai bà, chắc chắn là người ta sẽ không quên bà.”
Bà góa rót đầy hai ly. Họ cùng uống dưới ánh chiều tà.
- Anh đến từ một đất nước xa xôi theo lệnh một Thiên Chúa mà tôi không biết, nhưng từ đây sẽ là Thiên Chúa của tôi. Con tôi cũng từ nơi xa xăm trở về và nó có một câu chuyện đẹp để kể cho con cháu. Các tư tế sẽ ghi chép lời nó kể và truyền lại cho thế hệ tương lai.”

Do chính nhờ ký ức của các tư tế mà dân chúng biết được quá khứ của quê hương, các cuộc chinh phục, các vị thần của tổ tiên, các chiến binh đã đổ máu để bảo vệ lãnh thổ. Cho dù ngày nay có nhiều phương cách khác để ghi chép quá khứ, cư dân Ak-ba chỉ tin vào ký ức của các tư tế. Ai muốn viết gì thì viết; nhưng không ai có thể nhớ được những điều đã không bao giờ xảy ra.
Và tôi, tôi có chuyện gì để kể đây?” bà góa nói tiếp và rót thêm rượu vào ly không của E-li-a.”Tôi không có sức mạnh cũng như sắc đẹp của Je-za-ben. Cuộc đời tôi cũng giống như mọi người khác: hôn nhân do cha mẹ sắp đặt khi tôi còn là một cô bé, công việc nội trợ khi đã lớn, lễ lạy, những ngày thánh, chồng tôi thì luôn bận việc gì đó. Khi còn sống, chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện về một chủ đề nào quan trọng. Lúc nào ông ấy luôn bận việc kinh doanh, còn tôi, tôi chăm sóc nhà cửa và chúng tôi đã có những năm tháng đẹp nhất đời.
Sau khi ông ấy mất, tôi chỉ còn khó khăn và việc giáo dục thằng bé. Sau nầy, khi lớn lên, nó sẽ đi biển, và tôi không còn ai cả. Tôi không thù hận, cũng không biết ơn, chỉ duy nhất ý thức về sự vô dụng của mình.
E-li-a uống thêm ly nữa. Trái tim anh đã gióng lên những tín hiệu báo động. Anh thích gần gũi người đàn bà nầy. Tình yêu có thể là một điều gì còn đáng sợ hơn khi anh đối diện lính của A-kap, mũi tên hướng thẳng vào tim anh; nếu mũi tên ghim vào tim anh, anh đã chết-và Chúa sẽ phải tự lo liệu mọi việc. Nhưng nếu tình yêu đánh trúng anh, chính anh phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả.
Tôi đã ước mong được yêu”,anh thầm nghĩ. Và bây giờ , khi tình yêu ở trước mặt- không nghi ngờ gì nữa, tình yêu ở ngay đây, chỉ cần mình không chạy trốn-, anh chỉ có một ý nghĩ, quên đi càng nhanh càng tốt.
Tâm tư anh quay về cái ngày mà anh đến Ak-ba, sau cuộc lưu đày ở suối Kê-rít. Anh mệt và đói khát đến nỗi anh không nhớ gì hết, chỉ nhớ lúc anh tỉnh lại, anh thấy người đàn bà đút cho anh từng chút nước . Chưa bao giờ khuôn mặt anh gần mặt một người đàn bà như vậy. Anh để ý là mắt bà cùng màu với mắt hoàng hậu Je-za-bel, nhưng ánh mắt thì khác, như thể nó phản ánh màu cây hương nam, đại dương mà anh mơ tưởng nhưng chưa thấy và cả, làm sao có thể được, tâm hồn anh.
- Mình rất muốn nói điều đó với bà, ông nghĩ thầm. Nhưng mình không biết phải nói thế nào. Nói về tình yêu Thiên Chúa dễ hơn.”
E-lia- uống thêm chút nữa. Bà tưởng là bà đã nói gì làm anh buồn lòng, và bà quyết định thay đổi chủ đề.
- Ông đã lên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm?” Bà hỏi.
Anh gật đầu đồng ý.
Bà muốn hỏi anh cho biết những gì anh đã thấy trên đó và anh đã làm thế nào để tránh lửa từ trời thiêu đốt. Nhưng hình như anh không thích. 
Đó là một tiên tri. Anh ta đọc được tâm tư của mình”,bà nghĩ.
Từ khi người đàn ông Do Thái đến trong cuộc đời bà, tất cả đã thay đổi. Ngay cả cái nghèo cũng dễ chịu đựng hơn- bởi vì người xa lạ nầy đã khơi gợi lên một tình cảm mà bà chưa bao giờ biết:tình yêu. Khi con bà bệnh,bà đã bất chấp láng giềng di nghị để giữ ông trong nhà bà.
Bà biết rằng, đối với ông, Thiên Chúa quan trọng hơn bất cứ cái gì dưới vòm trời nầy. Bà biết đó là một giấc mơ không thể, vì con người nầy có thể ra đi bất cứ lúc nào, làm đổ máu Je-za-ben và sẽ không bao giờ trở lại để kể cho bà nghe những gì đã xảy ra.
Tuy vậy, bà sẽ tiếp tục yêu ông vì lần đầu tiên trong đời, bà biết thế nào là tự do. Bà có thể yêu ông- dù có thể ông không bao giờ biết. Bà không cần ông cho phép để cảm thấy rằng bà nhớ ông, nghĩ tới ông suốt cả ngày. Đợi ông về ăn cơm tối và lo lắng vì người ta có thể âm mưu chống lại người xa lạ. Đó là tự do: cảm xúc với những điều con tim cảm nhận, bất chấp ý kiến của người khác. Bà đã chống lại bạn bè, láng giềng về sự hiện diện của ông trong nhà. Bà không cần chiến đấu chống lại chính mình.
E-li-a uống thêm chút rượu, xin phép về phòng. Bà đi ra, vui mừng vì thấy con trai chơi trước nhà và quyết định đi dạo một lát.
Bà tự do vì tình yêu giải phóng.
E-li-a ngồi nhìn bức tường phòng ngủ giờ lâu. Cuối cùng, anh quyết định gọi thiên thần bản mệnh.
- Linh hồn con đang gặp nguy hiểm” ông nói.
Thiên thần im lặng. E-li-a ngập ngừng không dám nói tiếp, nhưng lỡ rồi: không thể gọi thiên thần mà không có việc gì.
- Khi con đứng trước người đàn bà nầy, con cảm thấy khó chịu.
- Trái lại là khác, thiên thần đáp lại. Và việc đó làm anh bối rối. Bởi vì có thể anh bắt đầu yêu.”
E-li-a xấu hổ vì thiên thần biết rõ lòng anh.
- Tình yêu rất nguy hiểm, ông nói.
- Rất nguy hiểm. Thì sao?
Thiên thần biến mất.
Thiên thần không làm dịu những dày vò trong lòng anh. Vâng, anh biết tình yêu là gì; anh đã thấy việc Ít-ra-en từ bỏ Thiên Chúa vì Je-za-ben, công chúa xứ Si-don đã chiếm trọn tim ông. Lịch sử nói rằng Sa-lo-mon cũng mất ngai vàng vì một người đàn bà ngoại quốc. Vua Đa-vít đã tống người bạn tốt nhất của mình vào chỗ chết vì ngài yêu vợ anh ta. Vì Da-li-la, Sam-son đã bị người Phi-lí-tin bắt cầm tù và móc mắt.
Sao, anh không biết yêu? Lịch sử tràn đầy những ví dụ bi đát. Và dù ngay khi anh không đọc Kinh Thánh, anh cũng biết kinh nghiệm của những người bạn, người quen phải chờ đợi hàng đêm trường trong đau khổ. Nếu anh đã có vợ ở Ít-ra-en, anh sẽ khó rời bỏ quê hương khi Thiên Chúa truyền lệnh, và bây giờ chắc anh đã chết.
Mình chiến đấu vô vọng, anh nghĩ. Tình yêu sẽ thắng cuộc chiến nầy, và tôi sẽ yêu em đến hết cuộc đời, lạy Chúa, xin trả con về Ít-ra-en để con không bao giờ phải nói ra tình cảm của con với người đàn bà nầy. Bà ta không yêu con và bà ta sẽ bảo con là trái tim của bà đã chết khi chôn cất chồng bà, một anh hùng.”

Hôm sau, E-li-a quay lại gặp ông lãnh binh. Ông biết rằng đã có thêm những trại lính mới.
- Hiện nay, tỷ lệ quân số hai bên bao nhiêu? Anh hỏi.
- Tôi không cung cấp thông tin cho kẻ thù của Je-za-ben.
- Tôi là trợ lý của tổng trấn. Ông ta đã bổ nhiệm tôi chiều hôm qua, ông đã được thông báo và có nhiệm vụ phải thông tin cho tôi.
- Viên lãnh binh muốn kết liễu cuôc đời tên ngoại quốc nầy.
- Quân số As-xi-ri gấp đôi quân ta” cuối cùng ông cũng trả lời.
E-li-a biết là địch quân cần một lực lượng đông hơn để đánh thành.
- Chúng ta đang ở thời điểm thích hợp nhất để thương thuyết, anh nói. Họ biết rằng chúng ta cao thượng và chúng ta có những điều kiện tốt nhất. Bất ký vị tướng nào cũng biết, muốn đánh chiếm một thành, lực lượng phải đông gấp năm lần quân giữ thành.
- Họ sẽ đạt được tỷ lệ đó nếu chúng ta không tấn công bây giờ.
- Dù cho có đủ quân nhu, họ cũng không có đủ nước cho số binh lính đó. Và đây là lúc nên gởi sứ giả đi.
- Khi nào?
- Hãy để cho số quân As-xi-ri tăng thêm chút nữa. Khi tình hình nguy cấp, chúng sẽ buộc phải tấn công, nhưng trong tỷ lệ ba hay bốn lính họ chọi một lính ta. Họ biết rằng họ sẽ thất bại. Lúc đó, sứ giả của chúng ta sẽ đề nghị hòa bình, tự do đi lại và bán nước uống. Đó là ý của quan tổng trấn.”
Viên lãnh binh im lặng và để cho người ngoại quốc ra đi. Dù E-li-a chết đi, quan tổng trấn cũng sẽ kiên định với ý nghĩ nầy. Ông thề rằng, nếu tình thế đưa đẩy đến đó, ông sẽ giết quan tổng trấn; rồi ông sẽ tự sát để khỏi chứng kiến cơn thịnh nộ của thần linh. Trái lại, ông sẽ không cho phép dân mình bị phản bội vì tiền.
- Lạy Chúa, cho con về lại đất Ít-ra-en, E-li-a van nài mỗi buổi chiều anh đi dạo trong thung lũng. Đừng để tim con bị giam cầm ở Ak-ba!”

Theo truyền thống của các ngôn sứ mà anh đã biết từ khi còn nhỏ, anh lấy roi tự đánh mình mỗi khi anh nghĩ đến bà góa. Lưng anh trầy trụa và trong hai ngày, anh lên cơn sốt. Khi anh thức giấc, cái anh nhìn thấy đầu tiên là khuôn mặt của người đàn bà; bà chăm sóc vết thương cho anh với thuốc mỡ và dầu ô-liu. Vì anh yếu quá, không xuống phòng ăn được, bà mang thức ăn lên phòng cho anh.
Khi anh thấy khỏe, anh lại tiếp tục lang thang trên thung lũng.
- Lạy Chúa! Cho con về Ít-ra-en, anh khẩn khoản cầu xin. Con tim con đã bị giam cầm ở Ak-ba, nhưng thân xác con còn có thể theo đuổi được cuộc hành trình.”
Thiên sứ xuất hiện. Không phải là vị mà anh đã thấy trên Ngọn Núi Thứ Năm, nhưng là thiên thần bản mệnh mà anh đã nghe quen giọng.
- Chúa chỉ nghe lời người nào kêu xin quên đi thù hận. Nhưng ngài không nghe những kẻ muốn chạy trốn tình yêu.”
Cả ba người, họ ăn tối mỗi ngày. Như lời Chúa hứa, bột không bao giờ thiếu trong thùng, dầu trong bình cũng không cạn.
Khi ăn, họ hiếm khi nói chuyện. Nhưng một tối kia, em bé hỏi anh:
- Ông ơi, Ngôn sứ là gì?
- Là người còn nghe được những tiếng nói mà họ nghe khi còn bé và tin vào những lời đó. Do đó, họ biết các thiên sứ nói gì.
- Vâng, em biết ông nói gì, đứa bé nói. Em có những người bạn mà không ai thấy họ.
- Đừng bao giờ quên họ, ngay cả khi người lớn bảo em đó là điều ngu ngốc. Như thế, em sẽ biết Thiên Chúa muốn gì.
- Em sẽ biết tương lai, như những thầy bói Ba-by-lon, thằng bé xác định.
Các ngôn sứ không biết trước tương lai. Họ chỉ truyền lại lời Thiên Chúa phán trong hiện tại. Đó là lý do mà tôi có mặt tại đây và không biết bao giờ thì được quay về quê hương. Ngài sẽ không cho tôi biết khi điều đó chưa cần thiết.’
Đôi mắt người đàn bà đượm buồn. Vâng, ngày nào đó, ông ta sẽ đi.
E-li-a không cầu xin Chúa nữa. Anh quyết định đến lúc thích hợp, anh sẽ rời Ak-ba, anh sẽ mang bà góa và đứa con trai theo. Anh sẽ không nói gì trước giờ hành động.
Có lẽ bà ta sẽ không chấp nhận ra đi. Có thể bà ta không cảm nhận được tình cảm anh dành cho bà?-vì chính bản thân anh cũng đã chậm hiểu ra điều đó. Như thế có lẽ sẽ tốt hơn. Anh có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào việc trục xuất Je-za-ben và xây dựng lại Ít-ra-en. Tâm trí anh sẽ khỏi bị chi phối vì tình yêu.
“Chúa là mục tữ tôi, anh nhớ lại một lời kinh xưa của vua Da-vít. Tâm hồn tôi an bình, ngài đưa tôi tới nguồn nước an nghỉ. Và Ngài sẽ không để tôi đánh mất ý nghĩa cuộc đời mình. Anh tự kết luận.
Một buổi chiều, anh về nhà sớm hơn lệ thường và thấy bà góa đang ngồi trên bục cửa. 
-Bà làm gì vậy?
- Tôi không có việc gì để làm cả.
-Thì học một nghề gì đó đi. Lúc nầy, nhiều người chán sống. Họ không phiền não, họ không khóc than, họ cam lòng nhìn thời gian trôi đi. Họ không chấp nhận thách thức của cuộc sống và cuộc đời không thách đố họ nữa. Bà cũng đối mặt với nguy cơ đó, nhưng xin đừng nãn lòng.
- Cuộc đời tôi đã có một ý nghĩa, bà cúi mặt nói nhỏ. Từ khi anh đến đây.”
Trong một phần ngàn giây, anh nghĩ rằng anh có thể nói thật lòng mình với bà. Nhưng anh chưa dám-chắc bà ta đang nói về một chuyện khác.
- Bà hãy tìm một công việc nào đó, anh nói để chuyển hướng câu chuyện. Như thế thời gian sẽ là bạn chứ không phải thù.
- Tôi thì học được nghề gì?
E-li-a suy nghĩ.
- Học chữ viết By-blos. Nó sẽ có ích cho bà nếu một lúc nào đó bà phải đi đây, đi đó.”
Người đàn bà quyết định sẽ toàn tâm toàn ý học làm việc nầy. Bà chưa bao giờ nghĩ đến việc rời xa Ak-ba, nhưng theo cách nói của anh , có lẽ anh sẽ mang bà đi theo.
Lần nữa, bà cảm thấy tự do. Lần nữa, buổi sáng bà thức dậy sớm và vui tươi đi dạo khắp thành phố.

Hai tháng sau, quan lãnh binh nói với thầy tư tế:
-  E-li-a chưa chết. Anh không ám sát hắn ta được sao?
- Trong cả Ak-ba nầy, không có ai muốn làm việc đó. Tên Do Thái đã an ủi người bệnh, thăm viếng tù nhân, nuôi người nghèo đói. Khi ai đó có bất hòa với láng giềng, họ chạy đến với hắn và chấp nhận phán quyết của hắn-vì chúng chính xác. Quan tổng trấn đã dùng hắn ta để tăng thêm uy tín với dân, nhưng không ai để ý.
- Thương nhân không thích chiến tranh. Nếu tổng trấn lấy được uy tín đến độ ông ta có thể thuyết phục mọi người rằng hòa bình tốt hơn, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể đánh đuổi được quân As-xi-ri ra khỏi đây. Phải giết E-li-a ngay lập tức.
Thầy tư tế chỉ Ngọn Núi Thứ Năm, đỉnh núi luôn chìm trong sương mù. 
- Các thần không bao giờ chấp nhận xứ sở các ngài lại bị cường quốc ngoại lai làm nhục. Các ngài sẽ thu xếp một cách nào đó: một biến cố nào đó sẽ xảy ra và chúng ta sẽ nắm lấy cơ hội.
- Cơ hội nào?
- Tôi không biết. Nhưng tôi sẽ chú ý quan sát các dấu chỉ. Bây giờ, anh hãy lưu tâm cung cấp cho tôi chính xác quân số của As-xi-ri. Nếu có ai hỏi, anh cứ nói là hiện nay tỷ lệ quân công thành và quân phòng ngự là bốn trên một. Và tiếp tục luyện quân.
- Tại sao tôi phải làm như thế? Nếu họ đạt đến tỷ lệ năm trên một, chúng ta tiêu đời.
- Không: chúng ta chỉ ở trong tình thế ngang ngửa thôi. Khi chiến trận nổ ra, anh sẽ không chiến đấu với một đạo quân yếu hơn và người ta không thể xem anh là một tên hèn, lấy mạnh hiếp yếu. Quân đội Ak-ba sẽ đối mặt với một địch thủ mạnh như mình và đã chiến thắng vì người chỉ huy đã áp dụng chiến thuật hay nhất.
Tính tự kiêu bị kích thích, quan lãnh binh chấp nhận đề nghị nầy. Và từ đó, ông bắt đầu giấu giếm thông tin không cho tổng trấn và E-li-a biết.
Lại hai tháng nữa trôi qua và sáng nay đạo binh As-xi ri đã đạt tỷ lệ năm trên một. Họ có thể tấn công bất cứ lúc nào.
Thời gian gần đây, E-li-a nghi ngờ quan lãnh binh nói dối về quân số đối phương, nhưng cái đó lại có lợi cho anh: khi tỷ lệ quân sĩ đạt đến điểm xấu, sẽ dễ dàng thuyết phục người dân rằng hòa bình là biện pháp duy nhất.
Anh suy nghĩ về chuyện đó trên đường đi ra quảng trường, nơi cả bảy ngày trong tuần, anh giúp người dân giải quyết tranh chấp. Thường thì chỉ là những chuyện không quan trọng: láng giềng cãi cọ, người già không muốn nộp thuế, thương nhân phàn nàn vì bị phân biệt đối xử trong buôn bán.
Quan tổng trấn cũng đã ở đó; thỉnh thoảng ông cũng đến xem. Ác cảm E-li-a dành cho ông đã hoàn toàn tan biến; anh nhận thấy ông là một người khôn ngoan, mong muốn giải quyết những khó khăn trước khi chúng xuất đầu lộ diện – dù rằng ông ta không tin vào thế giới thần linh và rất sợ chết. Nhiều lần, anh đã lạm dụng quyền hạn của mình để công nhận những quyết định của E-li-a như là luật chính thức. Lần khác, ông phản đối một kết luận của E-li-a và sau đóo ông nhận thấy rằng anh ta đúng.
Ak-ba trở thành thành phố điển hình của Phê-ni-xy. Quan tổng trấn đã xây dựng một hệ thống thuế khóa hợp lý, ông đã nâng cấp các con đường và ông biết sử dụng cách thông minh nguồn thu từ thuế. Vào một lúc nào đó, E-li-a đã yêu cầu cấm uống rượu và bia, vì rất nhiều vụ rắc rối anh giải quyết đều ít nhiều liên quan đến người say rượu. Nhưng quan tổng trấn cho rằng, tiêu thụ bia rượu là một trong những điều làm nên một thành phố lớn. Theo truyền thống, các thần vui thích khi cuối ngày làm việc, con người vui chơi và các ngài che chở những người say. Hơn nữa, vùng nầy sản xuất một trong những loại rượu nổi tiếng nhất trên thế giới, người nước ngoài sẽ không mua nữa nếu cư dân địa phương không uống. E-li-a tuân thủ quyết định của tổng trấn và cuối cùng, ông nhận ra rằng khi người dân vui vẽ, họ làm việc tốt hơn.
- Anh không cần vất vả như vậy, quan tổng trấn nói với E-li-a khi anh sắp bắt đầu công việc trong ngày.
- Tôi nhớ quê hương tôi và tôi muốn về. Bận rộn với công việc ở đây làm tôi cảm thấy có ích và không còn là người xa lạ nữa, anh nói.
"Và mình cũng sẽ kiềm chế tốt hơn tình yêu mình dành cho nàng.” E-li-a thầm nghĩ.

Tòa án nhân dân hiện nay được nhiều người quan tâm theo dõi. Dần dần, người ta tuôn đến, đó có thể là những người già không còn sức làm việc ngoài đồng, họ đến vỗ tay hay la ó các quyết định của E-li-a; người khác có quyền lợi liên quan trực tiếp đến các vấn đề đang được phân xử- có thể vì họ là nạn nhân, có lẽ vì họ sẽ được lợi từ những phán quyết. Cũng có đàn bà và trẻ em, vì không có việc làm, đến xem cho qua thời gian.
E-li-a trình bày các công việc của buổi sáng. Vụ thứ nhất là môt người mục đồng đã mơ thấy một kho báu bên Ai Cập, gần các kim tự tháp. Anh cần tiền để đến đó. E-li-a chưa bao giờ đến Ai Cập nhưng anh biết nước đó xa lắm. Anh giải thích cho người mục đồng rằng anh khó mà huy động được số tiền cần thiết từ người khác, nhưng nếu anh quyết định bán chiên của anh đi và trả giá cho chuyến đi, chắc anh sẽ tìm được cái anh muốn.
Đến một bà muốn học pháp thuật của Ít-ra-en. E-lia nhắc lại rằng, anh không phải là thầy, anh chỉ là một ngôn sứ.
Khi anh đang tìm cách hòa giải vấn đề của một nông dân đã mạt sát vợ một người khác, một người lính đẩm mồ hôi rẽ đám đông chạy vào và báo với quan tổng trấn:
- Một toán quân đi tuần đã bắt được một tên do thám. Chúng tôi đang dẫn nó đến đây.”
Đám đông rúng động: đây là lần đầu tiên người ta được tham dự vào việc phân xử một vụ như thế.
- Giết! Ai đó la lên. Giết quân thù.
Qua tiếng ồn ào, hình như những người ở quảng trường đồng ý . Trong thoáng chốc, tin đó đã lan ra cả thành phố và quảng trường đông nghẹt người. Những vụ khác bị xử qua loa. Nhiều lúc, người ta ngắt lời E-li-a và yêu cầu mang tên do thám đến ngay lập tức.
Tôi không thể cáng đáng vụ nầy, anh giải thích. Cái nầy thuộc thẩm quyền các nhà cai trị Ak-ba.
- Tụi As-xi-ri đến đây làm gì? Một ai đó la lên. Họ không thấy là chúng ta đã sống trong hòa bình từ nhiều thế hệ nay không?

Từ nhiều tháng nay, người ta không dám công khai đề cập đến sự hiện diện của quân thù. Mọi người đều thấy số lều trại đều đặn tăng lên hàng ngày cuối chân trời,các thương nhân mong muốn thương lượng hòa bình, dân Ak-ba thì không muốn tin rằng họ sống dưới đe dọa của một cuộc xâm lăng. Trừ việc thâm nhập bất ngờ của một bộ tộc nhỏ mà họ nhanh chóng đẩy lui, chiến tranh chỉ còn trong ghi chép của các tư tế. Các sách nầy nói đến một nước Ai Cập nào đó với ngựa, chiến xa và những vị thần hình thú vật. Nhưng những cái đó đã là quá khứ xa xôi, Ai Cập không còn là một cường quốc, và các chiến binh da sậm màu , nói một thứ tiếng lạ lùng đã về nước họ. Hiện nay, cư dân Tyr và Si-don thống trị trên biển, mở rộng một đế chế ra toàn thế giới, và, cho dù họ là những người lính thiện chiến, họ ngộ ra một cách khác để chiến đấu: buôn bán.
- Tại sao họ có vẽ kích động thế? Quan tổng trấn hỏi.
- Thưa, vì họ cảm thấy có cái gì đó đã thay đổi. Ông cũng biết như tôi là kể từ bây giờ quân As-xi-ri có thể tấn công bất cứ lúc nào. Và ông lãnh binh đã nói láo về quân số của địch.
- Nhưng anh ta có điên mới nói ra sự thật! Mọi người sẽ lo sợ.
Người ta đoán được khi bị nguy hiểm; họ có những phản ứng kỳ lạ, những linh cảm , họ cảm thấy có cái gì đó trong không khí. Họ không muốn nhìn thẳng vào sự thật, và tự nghĩ rằng không thể đối mặt với hiện trạng. Đến bây giờ, họ kể cho nhau nghe những tin đồn; nhưng rồi cũng sẽ đến lúc họ phải đối phó với sự thật.
Thầy tư tế đến.
- Nào, chúng ta đến lâu đài họp hội đồng Ak-ba. Quan lãnh binh đang trên đường đến.
-Đừng làm như thế, E-li-a nói nhỏ với quan tổng trấn. Họ sẽ ép anh làm điều anh không muốn.
- Đi nào, thầy tư tế cao giọng. Một tên do thám đã bị bắt và phải có biện pháp ngay lập tức.
- Thảo luận công khai ở đây đi, E-li-a thì thầm. Dân chúng sẽ ủng hộ ngài vì họ mong muốn hòa bình-dù cả khi anh tuyên chiến.
- Đem tên đó đến đây, quan tổng trấn truyền lệnh.
Đám đông reo hò vui mừng, lần đầu tiên, họ được tham gia vào buổi họp của hội đồng thành phố. 
- Không thể được! thầy tư tế la lớn. Đây là một vấn đề tế nhị, phải được giải quyết một cách bình tĩnh!
Một vài tiếng hoan hô, nhiều lời chống đối..
- Mang nó ra đây, quan tổng trấn lặp lại. Nó sẽ được phán xét ngay trên quảng trường nầy, giữa dân chúng. Chúng ta chung lưng đấu cật để Ak-ba trở nên thịnh vượng, và chúng ta sẽ cùng nhau phán xét tất cả những ai đe dọa thành phố.
Quyết định của ông được đón nhận với một tràng vỗ tay. Một nhóm lính xuất hiện, kéo theo một người áo quần tơi tả, đầy máu.Chắc anh ta đã bị đánh đập trước khi đến đây.
Im bặt. Cử tọa không nhúc nhích và người ta nghe tiếng heo kêu, tiếng trẻ con vui đùa bên kia quảng trường.
- Tại sao lại đối xử với tù nhân như thế? Quan tổng trấn la lên.
- Tại nó chống cự, một người lính nói. Nó đã nói rằng nó không đến để do thám. Nó đến đây để trao đổi.
Quan tổng trấn cho người đi tìm ba cái ghế. Người hầu cũng mang lại cái áo phán quan mà ông mang mỗi khi chủ trì họp hội đồng.
Quan tổng trấn và thầy tư tế đã ngồi xuống ghế, cái ghế thứ ba dành cho quan tổng binh khi ông đến. 
- Tôi long trọng tuyên bố khai mạc phiên tòa của thành phố Ak-ba. Xin các trưởng lão tiến lên.”
Một nhóm bô lão tiến đến và đứng thành hình bán nguyệt sau ba cái ghế. Họ là bô lão trong ban cố vấn; ngày xưa, ý kiến của họ rất được tôn trọng và làm theo, nhưng ngày nay, nhóm nầy chỉ còn tính cách trang trí: họ có mặt ở đó để chuẩn nhận những quyết định của chính quyền thành phố.
Sau khi đã hoàn tất một vài nghi lễ- một kinh cầu các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm và gọi tên một vài vị anh hùng trong quá khứ- quan tổng trấn quay qua hỏi tù nhân:
- Mầy muốn gì?
Tù nhân không trả lời. Nó nhìn ông ta với ánh mắt lạ lùng, như thể là người ngang hàng.
- Mầy muốn gì? Tổng trấn lặp lại.
Thầy tư tế khều tay ông,
- Chúng ta cần một phiên dịch. Tù nhân không nói ngôn ngữ của chúng ta.”
Lệnh được thực hiện, một người lính đi tìm một thương nhân có thể thông dịch được. Rất bận vì công việc mua bán, họ không bao giờ tham dự vào những phiên tòa do E-li-a tổ chức.
Trong lúc chờ đợi, thầy tư tế nói nhỏ:
- Họ đã đánh tù nhân vì họ sợ. Để tôi điều khiển phiên tòa nầy và đừng nói gì hết: sự sợ hãi đã làm họ trở nên hung hăng và nếu chúng ta không tỏ ra cứng rắn, chúng ta sẽ không kiểm soát được tình hình.”
Quan tổng trấn không trả lời. Ngài cũng sợ. Ngài đưa mắt tìm E-li-a, nhưng từ nơi quan ngồi, ông không thấy được.
Một thương nhân bị lính cưỡng bức đưa đến. Ông ta khiếu nại vì làm mất thời giờ của anh và anh còn rất nhiều chuyện phải làm. Nhưng vị tư tế, với tia nhìn nghiêm khắc, đã ra lệnh cho anh ta im lặng và thông dịch cho hội nghị.
- Mầy đến đây làm gì? Tổng trấn hỏi.
- Tôi không phải là lính do thám. Tôi là một tướng lĩnh trong quân đội. Tôi đến đây để trao đổi với quý vị.”
Cử tọa đang im lặng lắng nghe bỗng bắt đầu la ó sau khi nghe câu dịch. Họ cho rằng đó là lời dối trá và yêu cầu xử tử ngay lập tức.
Thầy tư tế yêu cầu trật tự và quay về phía tù nhân hỏi:
- Mầy muốn trao đổi cái gì?
- Quan tổng trấn có tiếng là người không ngoan, người lính As-xi-ri trả lời. Chúng tôi không muốn tàn phá thành phố nầy: cái mà chúng tôi quan tâm là Tyr và Si-don. Nhưng Ak-ba ở ngay giữa con đường đi qua thung lũng nầy. Nếu chúng bị bắt buộc phải đánh, chúng tôi mất thời gian và nhân mạng. Tôi đến đề nghị một giải pháp.”
Người nầy nói thật, E-li-a thầm nghĩ. Anh bị một nhóm binh lính vây quanh làm cho anh không thấy được nơi quan tổng trấn ngồi.”Anh ta suy nghĩ như mình. Chúa đã làm một phép lạ và ngài sẽ chấm dứt tình trạng ngặt nghèo nầy.”
Thầy tư tế đứng lên nói với dân chúng:
- Các vị thấy không, họ muốn phá hủy chúng ta mà không cần ra tay!
- Nói tiếp đi, quan tổng trấn ngắt lời.
Nhưng một lần nữa, thầy tư tế lại chen vào:
- Ngài tổng trấn là người tốt, ngài từ chối đổ máu. Nhưng chúng ta đang ở trong tình trạng chiến tranh và người đứng trước mặt chúng ta đây là một kẻ thù!
E-li-a nhận ra sai lầm của mình. Thầy tư tế đang lèo lái quần chúng còn quan tổng trấn chỉ tìm kiếm công đạo. Anh muốn tiến lại gần, nhưng người ta giữ anh lại. Một người lính nắm chặt cánh tay anh.
- Đứng đây. Dù sao, đó cũng là ý kiến của mầy mà.
E-li-a quay lại: viên lãnh binh đang cười mỉm.
- Chúng ta không thể chấp nhận một lời đề nghị nào cả, thầy tư tế nói tiếp, ông dùng những cử chỉ và lời lẽ để gây xúc động.Nếu chúng ta tỏ ra là chúng ta muốn thương lượng, đó là bằng chứng rằng chúng ta sợ. Nhưng dân thành Ak-ba rất can đảm. Chúng ta có khả năng chống lại bất cứ cuộc xâm lăng nào.
- Người nầy đề nghị hòa bình, quan tổng trấn nói với đám đông.
Một giọng cất lên” Thương nhân tìm kiếm hòa bình, thầy tư tế mong muốn hòa bình. Các quan tổng trấn cai trị hòa bình. Nhưng một đạo quân chỉ mong muốn một điều: chiến tranh!”
- Các ông không thấy là chúng ta đã thành công trong việc đối mặt với nguy cơ tôn giáo từ Ít-ra-en mà không cần chiến tranh sao? Quan tổng trấn hét lên. Chúng ta không gởi quân đội, đưa tàu chiến qua, nhưng chỉ có Je-za-ben. Bây giờ, họ thờ thần Ba-an mà chúng ta không cần phải hy sinh một người nào ngoài trận tiền.
- Nhưng họ không gởi qua một người đàn bà đẹp, họ gởi lính qua!” thầy tư tế la còn to hơn.
Dân chúng yêu cầu giết người lính As-xi-ri. Quan tổng trấn nắm cánh tay thầy tư tế.
- Ngồi xuống, anh đi quá trớn rồi đó.
- Chính ông đã đưa ý kiến tổ chức họp trước nhân dân. Hay đúng hơn chính tên khốn Ít-ra-en đã khuyên ông như thế.
- Tôi sẽ nói với anh ta sau. Bây giờ, chúng ta phải biết tên As-xi-ri kia muốn gì. Trong nhiều thế hệ rồi, con người muốn áp đặt ý chí trên hành động; họ nói điều họ muốn, nhưng họ không bao giờ quan tâm đến suy nghĩ của dân chúng và tất cả các vương quốc đó đã tàn lụi. Dân tộc ta trở nên lớn lao là vì chúng ta biết học lắng nghe. Nhờ đó, chúng ta đã phát triển thương mại, là cách lắng nghe người khác muốn gì và cố làm hết sức để đáp ứng. Kết quả là lợi nhuận.”
Thầy tư tế gật đầu.
- Ý kiến của ngài xem ra khôn ngoan và đó là cái tệ hại nhất trong các nguy cơ. Nếu ngài nói sai, rất dễ để chứng minh ngài sai. Nhưng những gì ngài mới nói sẽ đưa chúng ta tiến nhanh đến cái bẩy.”
Những người đứng ở hàng đầu chen vào câu chuyện. Cho đến nay, quan tổng trấn luôn cố gắng quan tâm đến ý kiến của Hội đồng, và Ak-ba đã được vang danh; Tyr và Si-don đã gởi sứ giả đến để học cách điều hành; tên của quan tổng trấn đã đến tai vua và, nếu may mắn một chút nữa, ông ta có thể là một bộ trưởng trong triều đình. Nhưng hôm nay, người ta đã công khai chống lại uy quyền của ông. Nếu ông không quyết định nhanh, ông sẽ đánh mất sự kính trọng của dân chúng.-và ông không thể ra những quyết định quan trọng vì không còn ai nghe lời ông.
- Nói tiếp đi” ông nói với tù nhân, bất chấp cái nhìn giận dữ của thầy tư tế và buộc người thông ngôn dịch lại câu hỏi của ông.
- Tôi đến đề nghị thương lượng, người As-xi-ri nói. Các ông để cho chúng tôi mượn đường và chúng tôi sẽ tiến đến Tyr và Si-don. Khi những thành phố nầy đã bị đánh bại- điều nầy là chắc chắn vì phần lớn binh lính của hai thành đều ở trên tàu buôn để bảo vệ việc thương mại,chúng tôi sẽ hào phóng với Ak-ba. Và tôi sẽ giữ ông làm tổng trấn như trước.
- Các ông thấy chưa? Thầy tư tế đứng lên nói. Họ cho rằng quan tổng trấn của chúng ta có thể đánh đổi danh dự của Ak-ba để giữ cái ghế của ông ta!
Đám đông phẫn nộ mắt đầu la lối. Tên tù nhân bị thương nầy, gần như trần truồng lại dám đặt điều kiện. Một người bại trận lại yêu cầu chúng ta đầu hàng! Một vài người đứng lên và sẵn sàng hành hung. Lính canh khó khăn lắm mới làm chủ được tình hình.
- Đợi đã, quan tổng trấn cố gắng nói to hơn mọi người. Trước mặt chúng ta là một con người không thể tự vệ, như thế, nó không thể làm cho ta sợ được. Chúng ta biết rằng quân đội chúng ta là đội quân được chuẩn bị tốt nhất và chiến binh của chúng ta là những con người dũng cảm nhất. Chúng ta không cần phải chứng minh với ai cả. Nếu chúng ta quyết định đánh, chúng ta sẽ chiến thắng, nhưng tổn thất sẽ nặng nề.”
E-li-a nhắm mắt cầu nguyện cho quan tổng trấn thành công trong việc thuyết phục dân chúng.
- Tổ tiên chúng ta kể cho chúng ta nghe về đế quốc Ai-cập, nhưng thời thế đã đổi thay, ông nói tiếp. Hiện nay, chúng ta đang ở thời cực thịnh, cha mẹ, ông bà chúng ta đã được sống trong hòa bình. Tại sao chúng ta phải kết thúc truyền thống nầy? Chiến tranh hiện đại là chiến tranh thương mại, không phải trên chiến trường.”
Dần dần, dân chúng trở lại yên lặng. Quan tổng trấn sắp thành công.
Khi đã hết tiếng ồn ào, ông quay sang nói với tù binh.
- Đề nghị của mầy chưa đủ. Các ông phải trả tiền thuế hàng hóa của các ông đi ngang qua lãnh thổ của chúng tôi.
- Tin tôi đi, quan tổng trấn, ông không còn lựa chọn nào khác đâu, người tù đáp lời. Hiện nay, chúng tôi đã có đủ lực lượng để phá thành nầy thành bình địa và giết hết dân chúng. Các ông sống quá lâu trong hòa bình và các ông không biết đánh trận, còn chúng tôi, chúng tôi đang chinh phục thế giới.”
Những tiếng thì thầm lại nỗi lên trong dân chúng. E-li-a nghĩ:”Không thể tỏ ra nhu nhược lúc nầy.” 
Nhưng thật khó đối mặt với tên tù As-xi-ri nầy, dù đang bị khống chế, hắn lại đang ra điều kiện. Càng lúc, người ta tụ tập càng đông. E-li-a để ý thấy là những thương nhân đã bỏ công việc đến đứng cùng đám đông đang lo lắng vì những điều đang xảy ra. Phán quyết sẽ có tầm quan trọng đáng kể; không còn đường thoái lui, quyết định sẽ là thương lượng hay là chết.
Dân chúng bắt đầu chia thành hai phe; một số mong muốn bảo vệ hòa bình, số khác đề nghị chống cự. Quan tổng trấn nói nhỏ với thầy tư tế:
- Tên nầy đã công khai chống đối cả ta và cả ngươi.”
Thầy tư tế quay lại và nói thầm vào tai tổng trấn và yêu cầu kết án tử hình tên nầy ngay.
- Tôi không yêu cầu, tôi bắt buộc. Chính tôi giữ ông trên ghế quyền lực và tôi sẽ chấm dứt việc đó khi nào tôi muốn, ông hiểu không? Tôi biết những nghi lễ để trấn an các thần linh khi chúng tôi buộc phải thay người cầm quyền. Đó sẽ không phải là lần đầu tiên: ngay cả bên Ai-cập, một đế quốc đã tồn tại hàng ngàn năm, nhiều đế chế đã bị thay thế. Và dù vậy, vũ trụ vẫn giữ nguyên trạng và trời không sập trên đầu chúng ta.”
Quan tổng trấn tái mặt.
Quan lãnh binh đang đứng trong dân chúng với một nhóm quân lính. 
- Nếu ông cứ khăng khăng muốn thương thuyết với tên nầy, tôi sẽ thông báo cho mọi người biết rằng thần linh đã bỏ rơi ông. Rồi ông sẽ bị hạ bệ. Chúng tôi sẽ tiếp tục phiên tòa. Và ông phải làm đúng như những gì tôi căn dặn.
Nếu có E-li-a ở đây, quan tổng trấn có lẽ còn giải pháp: có lẽ ông sẽ yêu cầu ngôn sứ người Ít-ra-en xác nhận rằng ông đã gặp thiên sứ trên Ngọn Núi Thứ Năm, như anh ta đã kể với ông. Anh ta sẽ nhắc lại chuyện con bà góa sống lại. Và như thế, lời của E-li-a, người đã có thể làm phép lạ, chống lại lời của một người chưa bao giờ chứng minh được là mình có quyền năng siêu nhiên.
Nhưng E-li-a đã bỏ rơi ông, và ông không còn lựa chọn nào khác. Và dù sao, đó cũng chỉ là một tù binh-có quân đội nào trên đời nầy đi chinh chiến mà không mất một người lính?
- Ông thắng trận nầy”, ông nói với thầy tư tế. Ngày khác, ông ta sẽ đáp trả.
Thầy tư tế gật đầu. Phán quyết được đưa ra ít phút sau.
- Không ai được chống lại Ak-ba, quan tổng trấn tuyên bố. Và không ai được phép vào thành của chúng ta mà không được phép. Mầy đã làm điều đó và mầy bị kết án tử hình.”
Từ chỗ mình ngồi, E-li-a cúi đầu. Quan lãnh binh mỉm cười.

Một đoàn người càng lúc càng đông đưa người tù ra một khoảnh đất gần chân thành. Ở đó, người ta lột áo quần anh ra. Một người lính xô anh xuống hố . Dân chúng bu đen chung quanh để nhìn.
Một người lính hãnh diện mang bộ đồ tác chiến để cho quân thù thấy mình vì anh ta can đảm. Một tên do thám thì mặc đồ phụ nữ, vì nó hèn nhát! Quan tổng trấn la lớn cho mọi người cùng nghe.
- Vì thế, tao cho mầy chết mà không được tôn trọng như một người can đảm.”
Dân chúng sỉ nhục tên tù nhân và vỗ tay hoan hô ngài tổng trấn.
Người tù lên tiếng, nhưng người phiên dịch không còn đó nữa, không ai hiểu gì. E-li-a cũng tìm được đường gặp quan tổng trấn, nhưng quá muộn. Khi anh chạm được vào áo ông, anh bị xô ra.
- Đó là lỗi của anh. Anh đã muốn có một phiên tòa công khai.
- Đó là lỗi của ông, E-li-a vặn lại. Dù cho Hội đồng thành phố Ak-ba họp kín, quan lãnh binh và thầy tư tế cũng đạt được điều họ muốn. Tôi bị lính của họ vây quanh trong suốt phiên tòa. Họ đã sắp đặt mọi việc.
Theo thông lệ , thầy tư tế là người quyết định thời gian hành hình sẽ diễn ra trong bao lâu. Ông nầy cúi xuống lượm một viên đá và trao cho tổng trấn: nó không đủ lớn để làm chết nhanh, nhưng cũng không nhỏ lắm để kéo dài thời gian thọ hình.
- Xin nhường ngài.
- Tôi bị ép buộc, tổng trấn nói nhỏ để chỉ thầy tư tế nghe. Nhưng ông biết rõ đây không phải là hướng giải quyết tốt.
- Trong những năm qua, ông đã bắt tôi phải đối diện với những hoàn cảnh khó khăn nhất còn ông thì trục lợi từ những quyết định mỵ dân, thầy tư tế đáp lại cũng chỉ vừa đủ nghe. Tôi đã phải đối diện sự nghi ngờ và mặc cảm tội lỗi, tôi đã nhiều đêm mất ngủ, bị ám ảnh bởi những sai lầm mà tôi có thể sẽ phạm phải. Nhưng vì tôi không phải là một thằng hèn, Ak-ba ngày nay là một thành phố được toàn thế giới khâm phục.
Mọi người đua nhau đi tìm đá. Trong một lúc, người ta chỉ nghe tiếng đá cuội va chạm vào nhau.
Thầy tư tế nói tiếp:
- Tôi có thể sai lầm khi kết án tử người nầy. Nhưng tôi chắc chắn là thành phố chúng ta không bị hạ nhục; chúng ta không phải là những tên phản bội.”
Quan tổng trấn giơ tay ném viên đá đầu tiên; người tù tránh được. Nhưng lập tức, giữa những tiếng la ó, chưởi rủa, đám đông bắt đầu ném đá.
Người tù lấy hai tay che mặt, đá trúng vào ngực, lưng, bụng. Quan tổng trấn muốn bỏ đi; ông đã nhiều lần chứng kiến cảnh tượng nầy, ông biết là cái chết sẽ từ từ và đau đớn, khuôn mặt sẽ là đám nhầy nhụa của xương, tóc và máu, người ta sẽ còn ném đá sau khi người đó đã chết. Sau một vài phút , tội nhân sẽ không tự bảo vệ nữa và buông tay. Nếu anh ta đã là một người tốt , các thần linh sẽ cho một viên đá trúng vào trước trán và bất tỉnh. Ngược lại, nếu anh ta là người hung bạo, anh ta sẽ tỉnh táo cho đến giây phút cuối cùng.
Đám đông la ó, ném đá càng lúc càng hung tợn và tử tội cố gắng tự bảo vệ. Đột nhiên, anh ta dang hai tay và nói một ngôn ngữ mà mọi người đều hiểu.
- Vạn tuế As-xi-ri, anh hô. Lúc nầy đây, tôi chiêm ngưỡng hình ảnh dân tộc tôi và tôi chết đi trong hạnh phúc, vì tôi chết như một viên tướng đã cố gắng cứu mạng sống của binh sĩ mình. Tôi sẽ đi gia nhập đoàn ngũ các thần linh và tôi vui mừng vì tôi biết chúng tôi sẽ chinh phục thế giới!
- Anh nghe không, thầy tư tế nói. Nó đã nghe và đã hiểu tất cả những gì diễn ra trong phiên tòa!”
Quan tổng trấn đồng tình. Người đó hiểu ngôn ngữ của chúng ta và bây giờ nó biết là hội đồng thành phố Ak-ba chia rẽ.
- Tôi không ở trong địa ngục bởi vì tương lai quê hương tôi làm cho tôi mạnh mẽ và cao thượng. Tương lai quê hương làm cho tôi vui mừng! Vạn tuế As-xi-ri!” tử tội la lên một lần nữa. 
Tỉnh lại sau khi bị quá bất ngờ, dân chúng lại tiếp tục ném đá. Tử tội giang rộng hai tay, không tìm cách tự bảo vệ nữa- đó là một chiến binh can đảm. Vài giây sau, lòng thương xót của thần thánh đã thể hiện: một viên đá trúng vào trán và anh ta bất tỉnh.
Bây giờ, chúng ta có thể đi được rồi, thầy tư tế tuyên bố. Dân Ak-ba sẽ lo hoàn tất phần việc.

E-li-a không trở về nhà bà góa. Anh bước đi vô định trong sa mạc.
- Thiên Chúa đã không làm gì, anh nói với cỏ cây, tảng đá, Chúa đã có thể can thiệp.”
Anh hối tiếc vì quyết định của mình, anh tự kết án mình đã đồng lõa gây ra cái chết của một con người. Nếu anh chấp nhận ý kiến cho Hội đồng Ak-ba họp kín, quan tổng trấn có thể đã cho anh cùng tham dự và họ sẽ là hai người đối lại thầy tư tế và viên lãnh binh. Cơ may có lẽ nhỏ nhoi nhưng dù sao cũng hơn trong buổi họp công khai.
Tệ hơn nữa: anh đã rất ấn tượng với cách thầy tư tế nói với đám đông; dù cho anh không đồng ý với tất cả những gì ông ta nói, anh phải chấp nhận rằng con người nầy có kỷ năng lãnh đạo sâu sắc. Anh sẽ cố gắng nhớ lại từng chi tiết buổi họp đó cho sau này-bên Ít-ra-en-anh sẽ đối đầu với vua và công chúa xứ Tyr.
Anh bước đi không mục đích, nhìn núi, thành phố và trại binh As-xi-ri phía xa. Anh chỉ là một chấm nhỏ trong thung lũng và một thế giới bao la vây quanh anh- một thế giới quá rộng lớn đến nỗi nếu anh có đi cả đời cũng không đến được tận cùng. Bạn bè, kẻ thù của anh có lẽ hiểu rõ thế giới hơn anh: họ có thể đi đến những xứ sở xa lạ, vượt đại dương, yêu một người đàn bà mà không cảm thấy tội lỗi. Không ai trong số họ còn nghe lời thiên sứ của thưở thiếu thời, cũng không tự ý tham gia cuộc đấu tranh vì danh Thiên Chúa. Họ sống trong giây phút hiện tại và họ hạnh phúc. E-li-a cũng là một con người như những người khác và lúc nầy, khi anh đi dạo trong thung lũng, anh ước chi mình đã chưa bao giờ nghe tiếng Thiên Chúa và các thiên sứ của Ngài.
Nhưng cuộc đời đâu phải là mong ước, nó được làm nên từ mỗi hành động của từng người. Anh nhớ là anh đã nhiều lần cố gắng từ chối sứ mệnh của mình và cuối cùng, anh đang ở giữa cái thung lũng nầy vì Chúa đã buộc anh làm như thế.
- Có thể tôi đơn giản chỉ là một anh thợ mộc, Chúa ơi, và như thế con còn có ích hơn cho công việc của ngài.”
Nhưng E-li-a đã hoàn thành điều được yêu cầu, mang trên vai gánh nặng chiến tranh đang tới, cuộc tàn sát các ngôn sứ của Je-za-ben, việc hành hình viên tướng As-xi-ri, nỗi sợ mối tình của anh dành cho người đàn bà Ak-ba. Chúa đã gởi đến cho anh một món quà, nhưng anh không biết làm gì với món quà đó.
Giữa thung lũng, nổi lên một vầng sáng. Đó không phải là thiên thần bản mệnh của anh- người mà anh luôn nghe lời, nhưng anh ít khi thấy. Đây là thiên sứ của Chúa đến an ủi anh.
- Tôi không có thể làm được gì ở đây nữa, E-li-a nói. Khi nào thì tôi được về Ít-ra-en?
- Khi anh đã học biết cách tái thiết, thiên sứ đáp. Hãy nhớ lại điều Thiên Cháy đã nói với Môi-se trước trận chiến. Hãy tranh thủ từng giây phút, nếu không muốn sau nầy phải ân hận, và ngươi đã đánh mất tuổi trẻ. Ở từng độ tuổi, Chúa cho những ưu tư khác nhau.”
“Thiên Chúa phán với Môi-se:
“ Đừng sợ, đừng để trái tim mình yếu mềm trước trận chiến, đừng run sợ trước quân thù. Người trồng nho mà chưa hưởng thụ từ cây nho, hảy làm nhanh lên, để rồi, khi nó chết đi trong chiến trận, một người khác sẽ hưởng thụ. Ai yêu một người phụ nữ, mà chưa đón nó về, hảy trở lại nhà nó, để khi, nếu nó chết trong chiến trận thì không phải là một người đàn ông khác đến chiếm hữu.

E-li-a đi thêm một lúc, cố hiểu những gì mình mới nghe. Khi anh chuẩn bị quay về Ak-ba, anh thấy người phụ nữ anh yêu ngồi trên một tảng đá dưới chân Ngọn Núi Thứ năm- cách chỗ anh đứng một quảng gần. 
- Bà ta làm gì ở đây? Hay là bà ta đã nghe biết về phiên tòa sáng nay, vụ hành hình, và những nguy cơ sắp xảy ra?”
Anh phải báo cho bà ngay lập tức. Anh quyết định đến gặp bà.
Bà đã thấy anh và ra dấu. E-li-a hình như đã quên mất lời của thiên sứ, vì bỗng nhiên, nỗi lo âu quay trở lại. Anh làm bộ như đang bận bịu với công việc của thành phố để bà không nhận ra sự bối rối đang ngự trị trong tim, trong hồn anh.
- Bà làm gì ở đây? Anh hỏi khi đến gần bà.
- Tôi đến đây tìm kiếm một vài ý tưởng. Chữ viết mà tôi học được làm cho tôi nghĩ đến Bàn Tay đã vẽ nên thung lũng, núi đồi, thành phố Ak-ba. Những thương nhân đã cho tôi mực đủ loại màu vì họ muốn tôi viết cho họ. Tôi tính dùng mực đó để mô tả thế giới chung quanh tôi nhưng tôi biết là sẽ khó lắm:dù tôi có màu, nhưng Thiên Chúa đã pha trộn chúng rất hài hòa.”
Bà nhìn chăm chú lên Ngọn Núi Thứ Năm. Bà trở thành một người hoàn toàn khác với con người mà anh đã gặp cách đây vài tháng, đang lượm củi ở cửa thành.
Sự hiện diện một mình của bà ở giữa sa mạc làm cho anh kính trọng và tin tưởng.
- Tại sao tất cả các ngọn núi đều có tên, trừ ngọn núi thứ năm thì lại dùng một con số? E-li-a hỏi.
- Để không gây nên tranh dành giữa các vị thần, bà trả lời. Truyền thống để lại nói rằng nếu con người dùng tên một vị thần nào đó đặt cho ngọn núi, các vị khác sẽ nổi giận và tàn phá trái đất. Do đó người ta chỉ gọi là Ngọn Núi Thứ Năm mà khi ở trong thành nhìn ra,chúng tôi thấy được. Như thế chúng tôi không làm mất lòng ai cả và vũ trụ vẫn còn trong trật tự.”
Họ im lặng một lúc rồi bà lên tiếng:
- Tôi suy nghĩ về các màu sắc và tôi cũng nghĩ đến nguy cơ mà chữ viết By-blos gây nên. Nó có thể làm phật lòng các thần Phê-ni-xi và Thiên Chúa chúng ta.
- Chỉ có Thiên Chúa duy nhất, E-li-a ngắt lời. Và các xứ văn minh đều có chữ viết.
- Nhưng chữ viết nầy khác. Khi còn bé, tôi thường ra quảng trường xem người họa sĩ vẽ chữ cho thương nhân. Các hình vẽ của họ, dựa trên chữ viết Ai-cập yêu cầu khéo tay và kiến thức. Bây giờ, nước Ai-cập hùng mạnh cổ xưa đang suy tàn, nó không còn tiền để mua bất cứ cái gì, và không còn ai dùng chữ viết đó nữa. các nhà du hành Tyr và Si-don phổ biến chữ viết Bi-blos ra khắp thế giới. Người ta có thể viết chữ và ghi các nghi lễ lên trên những bảng đất sét rồi truyền từ nước nầy qua nước khác. Cái gì sẽ xảy ra cho thế giới nếu những người không cẩn thận bắt đầu dùng các nghi thức để can thiệp vào vũ trụ?”
E-li-a hiểu bà muốn nói gì. Chữ viết Bi-blos dựa trên một hệ thống rất đơn giản: chỉ cần chuyển các chữ tượng hình Ai-cập thành âm, rồi dùng một ký tự cho một âm. Theo thứ tự mà người ta sắp đặt các chữ, người ta có thể tạo ra tất cả các âm và mô tả bất cứ cái gì có trong vũ trụ. Một vài âm khó đọc, người Hy-lạp đã giải quyết khó khăn nầy bằng cách thêm năm chữ, gọi là phụ âm, vào hai mươi mấy chữ của bảng chữ cái Bi-blos. Họ đã đặt tên cho phát minh nầy là “ Bảng chữ cái”, tên mà cho đến nay người ta dùng để gọi loại chữ viết mới.

Những quan hệ thương mại giữa các nền văn hóa khác nhau đã trở nên dễ dàng. Với chữ viết Ai-cập, cần có nhiều không gian và khéo léo để có thể diễn đạt ý nghĩ và một người hiểu biết sâu rộng mới đọc được; nó đã được áp đặt cho các dân bị trị, nhưng đã không tồn tại được khi đế chế sụp đổ.. Trái lại, hệ thống chữ viết Bi-blos được loan truyền nhanh chóng trên thế giới và việc áp dụng bảng chữ cái không lệ thuộc vào sức mạnh kinh tế của Phê-ni-xi.

Phương pháp của Bi-blos ,với sự bổ túc của Hy-lạp, đã làm hài lòng thương nhân nhiều nước; từ thời cổ đại, chính họ là những người quyết định cái gì đáng lưu vào lịch sử, và cái gì phải biến mất sau cái chết của một vị vua hay một nhân vật quan trọng nào đó. Điều đó có nghĩa là phát minh của người Phê-ni-xi đã trở thành ngôn ngữ thương mại, trường tồn hơn tên tuổi các nhà du hành, các vua chúa, các công chúa xinh đẹp ,các nhà sản xuất rượu và thủy tinh.
-Thiên Chúa sẽ biến mất trong văn tự không? Người đàn bà hỏi.
-Chúa sẽ luôn hiện diện trong đó, E-li-a trả lời. Nhưng mỗi người sẽ chịu trách nhiệm trước mặt Ngài về tất cả những gì họ viết.”
Người đàn bà rút ra từ trong tay áo một tấm đất sét có viết chữ.
- Cái nầy nghĩa là gì? E-li-a hỏi.
- Tình yêu.
E-li-a cầm tấm bảng, nhưng không dám hỏi bà tại sao lại đưa cho anh. Trên miếng đất sét nầy, một vài nét nguệch ngoạc tóm tắt lại những gì các vì sao treo lơ lửng trên trời, và tại sao con người bước đi trên mặt đất.
Anh muốn trả lại cho bà, nhưng bà từ chối.
- Tôi viết cái đó cho anh. Tôi biết trách nhiệm của anh, tôi biết một ngày nào đó anh phải ra đi và anh sẽ trở thành kẻ thù của đất nước tôi vì anh muốn tiêu diệt Je-za-ben. Ngày đó, có lẽ tôi sẽ đứng về phía anh, ủng hộ anh để anh hoàn thành nhiệm vụ. Hay cũng có thể tôi sẽ chiến đấu chống lại anh bởi vì máu của Je-za-ben là máu của chúng tôi; cái chữ mà anh cầm trong tay tràn đầy bí ẩn. Không ai biết được nó gợi lên cái gì trong tim một người phụ nữ- ngay cả các ngôn sứ thường hay trò chuyện với Thiên Chúa.
- Tôi biết chữ nầy, E-li-a nói trong lúc cất cái bảng vào trong áo choàng. Tôi đã chiến đấu ngày đêm chống lại nó vì tôi không biết nó gợi lên điều gì trong tim phụ nữ, tôi biết điều nó có thể gây ra cho đàn ông.Tôi có đủ can đảm để đối mặt vua Ít-ra-en, công chúa Si-don, hội đồng thành phố Ak-ba, nhưng chỉ một chữ tình yêu nầy làm cho tôi sợ hãi vô cùng. Trước khi em viết nó lên tấm bảng, đôi mắt em đã khắc nó vào tim tôi.”
Cả hai cùng im lặng. Cái chết của người lính As-xi-ri, tình hình căng thẳng trong thành, tiếng gọi của Chúa có thể cất lên bất cứ lúc nào, nhưng cái chữ bà viết có uy lực hơn tất cả những cái đó.
E-li-a chìa tay ra và bà nắm lấy. Họ ngồi như thế cho đến khi mặt trời khuất sau Ngọn Núi Thứ Năm.
- Cảm ơn, bà nói trên đường về. Đã từ lâu em muốn trải qua một buổi chiều với anh.
Sứ giả của quan tổng trấn đang đợi: ông yêu cầu E-li-a đến gặp ông ngay lập tức.
-Tôi đã nâng đỡ anh, và để trả ơn tôi, anh đã tỏ ra là một thằng hèn, quan tổng trấn nói. Tôi phải làm gì với anh bây giờ?
-Tôi sẽ không sống thêm được một giây phút nào, nếu Chúa không muốn, E-li-a trả lời. Chính Ngài quyết định chứ không phải ông.
Quan tổng trấn kinh ngạc vì sự can đảm của E-li-a.
-Tôi có thể chặt đầu anh ngay bây giờ. Hay là kéo lê anh đi khắp các nẻo đường thành phố, rêu rao rằng anh đã mang tai họa đến cho dân tộc tôi, quan đáp lại. Và đó không phải là quyết định của Thiên Chúa Duy Nhất của anh.
- Dù số mệnh tôi thế nào, nó sẽ được thực hiện. Nhưng ông nên biết rằng, tôi đã không trốn chạy; lính của quan lãnh binh đã ngăn chận tôi đến gần ông. Họ muốn chiến tranh và họ đã làm tất cả để đạt được điều đó.
Quan tổng trấn quyết định chấm dứt cuộc tranh luận vô bổ nầy. Ông muốn trình bày kế hoạch của mình với vị ngôn sứ đến từ Ít-ra-en.
Không phải quan lãnh binh muốn chiến tranh; như là một quân nhân, anh ta biết là quân của anh yếu hơn, thiếu luyện tập và kinh nghiêm chiến đấu. Là một người trọng danh dự, anh ta cho rằng đó có khi lại là một nỗi tủi nhục cho con cháu. Nhưng kiêu hãnh và tự đắc đã làm cho tim anh ta cứng nhắc.
Anh ta cho rằng quân thù đang khiếp sợ. Anh ta không biết rằng quân đội As-xi-ri được tập luyện rất tốt: khi vào quân đội, họ trồng một cây, và hàng ngày, họ nhảy qua nơi đã gieo hạt mầm. Hạt mầm phát triển thành cây và họ tiếp tục nhảy qua. Họ không chán, không cho rằng việc đó mất thời gian. Dần, dần, cây lớn lên- và người chiến binh nhảy càng lúc càng cao. Họ chuẩn bị cho khó khăn sau nầy với tất cả lòng kiên nhẫn và tận tâm.
Họ quen đối mặt với thách thức. Họ đã quan sát chúng ta từ nhiều tháng nay.”
E-li-a ngắt lời quan tổng trấn:
- Ai có lợi trong cuộc chiến nầy?
- Thầy tư tế. Tôi đã hiểu ý ông ta trong phiên tòa xử người lính As-xi-ri.
- Thưa ngài, vì sao?
- Tôi không biết. Nhưng ông ta đã khéo léo thuyết phục viên lãnh binh và dân chúng. Bây giờ, cả thành phố theo ông ta và tôi chỉ thấy một lối thoát cho tình huống khó khăn mà chúng ta đang đối mặt.”
Ông ta im lặng một hồi lâu rồi nhìn vào mắt người Ít-ra-en.
“Anh.”
Quan tổng trấn bắt đầu đi qua đi lại, nói nhanh và tỏ ra kích động.
- Các thương nhân cũng thích hòa bình, nhưng họ không làm gì được. Hơn nữa, họ có tiền để trốn đến một thành khác hay đợi cho người chiến thắng bắt đầu mua hàng của họ. Phần dân chúng còn lại đã mất trí khôn và đòi buộc chúng ta phải tấn công một kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều. Cách duy nhất để thuyết phục họ đổi ý, là một phép lạ.”
E-li-a ngạc nhiên.
- Một phép lạ sao?
- Anh đã làm cho một thằng bé sống lại. Anh đã giúp dân chúng tìm được hướng đi đúng đắn, và cho dù là người ngoại quốc, hầu như mọi người đều yêu mến anh.
- Tình hình cho đến sáng nay là như vậy, E-li-a đáp. Nhưng bây giờ đã khác: trong tình huống như ngài vừa mô tả, bất kỳ ai cổ vũ cho hòa bình đều được xem như là một tên phản bội.
- Không phải là để bảo vệ bất cứ cái gì. Tôi muốn anh làm một phép lạ lớn như việc làm cho thằng bé sống lại. Lúc đó, anh sẽ nói với dân chúng là hòa bình là con đường duy nhất và họ sẽ nghe lời anh. Thầy tư tế sẽ mất hoàn toàn quyền lực.
Im lặng hồi lâu. Quan tổng trấn nói tiếp:
- Tôi sẵn sàng thỏa thuận với anh: nếu anh làm việc tôi yêu cầu, đạo của Thiên Chúa Duy Nhất sẽ là bắt buộc đối với mọi người dân Ak-ba. Như thế, anh làm vui lòng Đấng mà anh phụng sự và tôi cũng thành công trong việc thương lượng hòa bình.
E-li-a bước lên lầu, vào phòng mình. Lúc nầy, anh có một vận may mà không một ngôn sứ nào trước anh có được: làm cho cả một thành phố Phê-ni-xi trở lại. Đó có lẽ cũng là cách chứng minh cho Je-za-ben thấy cái giá bà phải trả cho những gì bà đã làm trên quê hương anh.
Anh bị kích thích với đề nghị của quan tổng trấn. Ông nghĩ ngay đến cả việc thức bà góa dậy, bà ngủ dưới nhà, nhưng anh đổi ý; có lẽ bà đang mơ về buổi chiều tuyệt vời họ đã ở cùng nhau.
Anh kêu gọi thiên thần bản mệnh. Và thiên thần xuất hiện.
- Ngài đã nghe đề nghị của quan tổng trấn, E-li-a nói. Đây là cơ hội duy nhất.
- Không có cơ hội nào là duy nhất, thiên sứ trả lời. Thiên Chúa ban cho con người nhiều cơ hội. Hơn nữa, anh có nhớ điều anh đã được báo trước: anh sẽ không làm được bất kỳ phép lạ nào cho đến khi anh trở về quê hương.
E-li-a cúi đầu. Lúc đó, thiên sứ của Chúa xuất hiện và tuyên bố:
- Đây là phép lạ sắp tới của anh: Anh hãy tụ tập toàn dân trên núi. Một bên, anh sẽ yêu cầu dựng lên một bàn thờ cho Ba-an, và bên trên đặt một bò đực tơ. Bên kia, anh sẽ làm một bàn thờ cho Chúa, và trên đó, anh cũng sẽ đặt một con bò tơ.
Rồi anh sẽ nói với người thờ kính Ba-an:”Hãy gọi danh thần các ngươi đi, còn tôi, tôi sẽ gọi danh Thiên Chúa”. Hãy để cho họ làm trước; hãy để họ cầu khẩn Ba-an xuống nhận của lễ suốt cả buổi sáng. Họ sẽ la lớn và dùng dao găm rạch mình xin thần đến nhận của lễ, nhưng sẽ không có gì xảy ra.
Khi họ đã mệt mỏi, anh sẽ kín đầy bốn bình nước rồi tưới lên con bò. Anh sẽ làm một lần thứ hai. Và một lần thứ ba. Rồi anh kêu cầu Danh Chúa của A-bra-ham, của I-sa-ac, của Ít-ra-en xin Ngài biểu lộ quyền năng. Lúc đó, Chúa sẽ cho lửa từ trời đến đốt cháy của lễ anh dâng.”
E-li-a quỳ gối tạ ơn.
Tuy nhiên, thiên sứ nói tiếp, phép lạ nầy chỉ xảy ra một lần duy nhất trong đời anh. Hãy cân nhắc xem anh muốn làm nó ở đây, để tránh cuộc chiến tranh hay anh sẽ làm tại quê nhà để giải thoát dân mình khỏi sự đe dọa của Je-za-ben.
Và Thiên sứ ra đi.

Người đàn bà thức dậy sớm và thấy E-li-a ngồi trên bục cửa. Mắt anh thâm quầng như người cả đêm không ngủ. Bà muốn hỏi anh chuyện gì đã xảy ra đêm qua, nhưng bà sợ câu trả lời. Việc anh mất ngủ có thể là do anh đã nói chuyện với quan tổng trấn, và vì nguy cơ chiến tranh; nhưng cũng có thể do nguyên nhân khác, bảng đất sét mà bà đã tặng anh. Vậy thì, nếu bà hỏi, có nguy cơ câu trả lời sẽ là: tình yêu của một người đàn bà không phù hợp với ý định của Thiên Chúa.
- Vào ăn chút gì đi, đó là câu duy nhất bà nói được.
Cậu con trai thức dậy. Cả ba cùng ngồi vào bàn ăn.
- Hôm qua, tôi muốn ở nhà, E-li-a nói. Nhưng quan tổng trấn cần tôi.
- Đừng lo, bà nói, cảm thấy yên tâm. Gia đình quan tổng trấn đã cai trị Ak-ba nầy từ nhiều thế hệ, ông ta biết phải làm gì trước hiểm nguy .
- Tôi cũng đã nói chuyện với thiên sứ. Ngài đã buộc tôi phải có một quyết định khó khăn.
- Anh không cần quan tâm đến các thiên sứ. Có lẽ tốt hơn là tin rằng các thần cũng thay đổi theo thời gian. Tổ tiên em thờ các thần Ai-cập có hình dạng thú vật. Các thần nầy đã ra đi và cho đến khi anh đến đây, họ dạy em dâng của lễ lên thần As-tác-tê, thần El, thần Ba-an và tất cả các thần cư ngụ trên Ngọn Núi Thứ Năm. Bây giờ , em biết Chúa, nhưng có thể một ngày kia , Ngài sẽ bỏ chúng ta, và các thần tiếp theo sẽ ít nghiêm khắc hơn.”
Cậu bé xin nước uống. Không có nước.
- Tôi sẽ đi lấy nước, E-li-a nói.
- Em đi với ông, cậu bé xin.
Họ cùng nhau đi ra giếng. Dọc đường, họ đi qua nơi quan lãnh binh đang huấn luyện binh sĩ, từ buổi sáng sớm.
- Nào, xem một chút đi ông. Khi lớn lên, em cũng sẽ là lính.
E-li-a gật đầu.
- Ai là người đánh kiếm giỏi nhất trong chúng ta? Một người lính hỏi.
Chạy đến nơi tên do thám bị ném đá hôm qua, quan lãnh binh nói:
-  Lượm một cục đá to và hãy chửi rủa nó.
- Sao lại làm vậy? Hòn đá đâu biết nói.
- Như vậy hãy lấy kiếm đánh nó.
- Kiếm tôi gảy mất, người lính nói. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn hỏi; tôi muốn biết ai là người sử dụng kiếm giỏi nhất.
- Người giỏi nhất là người giống như cục đá kia. Không cần rút gươm ra khỏi bao, nó đã chứng minh là không ai đánh bại được nó.
Quan tổng trấn có lý: quan lãnh binh là người khôn ngoan, E-li-a nghĩ bụng. Nhưng khôn ngoan có thể bị kiêu ngạo che lấp.
Họ tiếp tục lên đường. Cậu bé hỏi anh vì sao lính phải tập nhiều thế.
- Không chỉ binh lính, nhưng mẹ em cũng tập, cả tôi, cả những ai nghe tiếng lương tâm. Trong cuộc sống, cái gì cũng phải tập.
- Ngôn sứ cũng phải tập sao?
- Ngay cả việc để hiểu các thiên sứ. Chúng ta rất muốn nói với các ngài nhiều đến nỗi chúng ta không nghe những gì các ngài nói. Nghe không phải dễ : trong lời cầu nguyện chúng ta tìm cách biện minh cho những sai lầm và nói những gì chúng ta mong ước xảy ra. Nhưng Thiên Chúa đã biết tất cả những điều đó, và đôi khi, Ngài yêu cầu chúng ta chỉ nghe những gì vạn vật nói với chúng ta. Và kiên nhẫn.
Cậu bé nhìn anh, ngạc nhiên. Nó không hiểu gì, nhưng E-li-a lại muốn tiếp tục câu chuyện. Có lẽ, khi em lớn khôn, những điều nầy sẽ có ích cho em khi gặp khó khăn.
- Tất cả các cuộc tranh đấu trong đời ta đều dạy cho ta một bài học nào đó, kể cả khi chúng ta thất bại. Khi em lớn lên, em sẽ thấy rằng mình đã ủng hộ những lời nói dối, hay chính em cũng dối với chính mình, hay là em sẽ ân hận vì những việc ngu ngốc, nhưng em sẽ không để những sai lầm lặp lại.
Anh quyết định ngừng nói; một đứa trẻ từng nầy tuổi không thể hiểu những gì anh nói. Họ im lặng bước đi và E-li-a nhìn những con đường mới ngày nào đó đã đón tiếp anh và bây giờ sắp bị phá hủy. Tất cả tùy thuộc vào quyết định của anh.

Ak-ba yên tỉnh hơn mọi khi. Trên quảng trường trung tâm, người ta tranh luận thì thầm- như thể họ sợ gió sẽ đưa những lời nói của họ đến tận trại binh As-xi-ri. Những người già xác quyết sẽ không sao, người trẻ thì bị kích động bởi trận chiến sắp đến, thương nhân và thợ thủ công dự tính lánh đến Tyr hay Si-don cho đến khi tình hình lắng xuống.
Với họ, lánh đi là việc dễ dàng, anh thầm nghĩ. Thương nhân có thể chở hàng hóa của họ đi bất cứ đâu trên thế gian nầy. Thợ thủ công có thể hành nghề ngay cả những nơi người ta nói một ngôn ngữ khác. Nhưng tôi, tôi phải có phép của Thiên Chúa.
Họ đến giếng và múc đầy hai bình nước. Bình thường, nơi nầy rất đông người; các bà tụ tập giặt giũ, nhuộm vải và bàn luận về tất cả những gì xảy ra trong thành. Không có bí mật gì nơi đây; các tin tức về thương mại, lục đục trong gia đình, láng giềng xô xát. Đời tư các vị lãnh đạo, tất cả mọi chủ đề- đứng đắn hay tào lao- đều được thảo luận, bình phẩm, chỉ trích hay hoan hô. Ngay cả trong những tháng, khi lực lượng địch quân không ngừng tăng lên, Je-za-ben, nàng công chúa đã chinh phục được vua Ít-ra-en vẫn là đề tài ưa thích. Các bà khen ngợi sự táo bạo, lòng can đảm, và tin chắc rằng, nếu có vấn đề gì, bà sẽ quay về để trả thù.
Nhưng sáng hôm đó, hầu như không có người nào. Một vài bà có mặt ở đó nói rằng họ phải đi về nhà quê tìm kiếm càng nhiều lương thực càng tốt bởi vì quân As-xi-ri sắp phong tỏa cửa thành. Hai bà trong số đó còn tính đi đến tận Ngọn Núi Thứ Năm để dâng lễ vật lên thần linh- họ không muốn con mình chết trận.
- Thầy tư tế đã nói rằng chúng ta có thể cầm cự được nhiều tháng, ông giải thích cho một bà. Chỉ cần chúng ta can đảm bảo vệ danh dự của Ak-ba, các thần sẽ giúp chúng ta.
Cậu bé sợ hãi.
- Quân thù sắp tấn công à? Nó hỏi.
E-li-a không trả lời; cái đó tùy thuộc vào lựa chọn của anh ( mà thiên sứ đã đề nghị hôm qua).
- Em sợ, cậu bé nói.
- Điều đó chứng tỏ em yêu cuộc sống. Đôi lúc, sợ là chuyện bình thường.
E-li-a và cậu bé về đến nhà trước buổi trưa. Người đàn bà đã đặt chung quanh mình nhiều lọ mực nhỏ nhiều màu.
- Em phải làm việc, bà vừa nói vừa nhìn vào những chữ và câu đang viết dở. Vì hạn hán, bụi ngập tràn thành phố. Bút vẽ luôn bẩn, mực không sạch, mọi cái đều khó khăn hơn.
E-li-a vẫn thinh lặng: anh không muốn bà bị phân tâm. Anh ngồi trong góc phòng và chìm trong suy tư. Cậu bé ra ngoài chơi với các bạn.
Anh ấy cần thinh lặng, bà nghĩ, và bà cố gắng tập trung vào công việc.
Bà đã mất cả phần còn lại của buổi sáng để hoàn thành một vài chữ mà thường ra chỉ cần một nửa thời gian là xong, và bà cảm thấy có lỗi vì đã không làm được như người ta mong đợi ở bà; rốt cuộc, lần đầu tiên trong đời, bà đã may mắn được phụ phần vào những chi tiêu của gia đình.
Bà lại làm việc; bà dùng giấy dó, vật liệu mà một thương nhân mới mang từ Ai-cập đến cho bà. Ông ta nhờ bà viết vài cái thư buôn bán mà ông ta phải gởi đi Da-mas. Chất lượng tờ giấy không tốt và mực lem ra.”Mặc cho những khó khăn nầy, cũng dễ hơn là vẽ trên đất sét.”
Các xứ lân cận thường gởi thư trên những tấm đất sét hay da lừa. Ai-cập là một xứ đang suy đồi, chữ viết bị bỏ quên, nhưng ít ra ở đó họ đã khám ra một cách tiện lợi và nhẹ nhàng để ghi chép thương mại hay lịch sử; người ta tách thân một loại cây mọc nhiều bên bờ sông Nil và với một kỹ thuật đơn giản, họ dán những lớp nầy lại làm thành một loại giấy màu vàng nhạt. Ak-ba phải nhập giấy dó vì không thể trồng cây đó trong thung lũng. Dù đắt tiền, thương nhân chuộng giấy hơn vì họ có thể mang những tờ giấy viết trong xách- với các bảng đất sét và da dê thì không thể.
Mọi sự thành dễ dàng, bà nghĩ. Đáng tiếc là phải có phép của nhà nước mới được viết chữ By-blos trên giấy dó. Một luật đã lỗi thời buộc các văn bản phải được hội đồng Ak-ba kiểm soát.
Xong việc, bà cho E-li-a xem khi anh đang ngồi cả buổi nhìn bà viết, nhưng không bình phẩm.
- Anh thấy thế nào? Bà hỏi.
Anh như thể vừa tỉnh ngủ.
- Đẹp, anh trả lời mà không chú ý tới điều mình nói.
Anh còn phải đối thoại với Thiên Chúa và bà không muốn cản trở anh. Bà bước ra đi tìm thầy tư tế.
Lúc bà trở lại, E-li-a vẫn còn ngồi tại chỗ. Hai người đàn ông nhìn nhau. Cả hai cùng im lặng trong một lúc lâu. Thầy tư tế phá tan im lặng. “Anh là một ngôn sứ, anh nói chuyện với các thiên sứ. Tôi chỉ là người giải thích các luật lệ cổ truyền, thực hành các nghi lễ và cố gắng bảo vệ dân tôi khỏi sai lạc. Do đó, tôi biết rằng cuộc chiến nầy không phải là cuộc chiến của con người. Đây là cuộc chiến của các vị thần linh và tôi không ngăn nó lại được.
- Tôi khâm phục đức tin của ông, mặc dù anh tôn thờ các thần không hiện hữu. Nếu tình cảnh bây giờ, như anh nói, là cuộc chiến thần linh, Chúa sẽ dùng tôi như khí cụ của Ngài để phá hủy Ba-an và các bạn hữu trên Ngọn Núi Thứ Năm. Có lẽ tốt nhất là anh ra lệnh giết tôi đi.
- Tôi đã tính đến chuyện đó. Nhưng không cần thiết; đến lúc thuận tiện, các thần sẽ ủng hộ tôi.”
E-li-a không trả lời. Thầy tư tế quay lại và cầm lấy tờ giấy dó mà người đàn bà vừa viết xong.
- Tốt, ông bình phẩm . 
Sau khi đã đọc cẩn thận, ông rút chiếc nhẫn từ bàn tay, nhúng vào mực và đóng dấu lên góc bên trái. Bất kỳ ai bị phát hiện có giữ một tờ giấy viết không có mộc của tư tế sẽ bị kết án tử hình.
- Tại sao lúc nào thầy cũng phải làm như vậy? bà hỏi.
- Vì tờ giấy nầy ghi những ý tưởng, ông trả lời. Và ý tưởng thì có quyền năng.
- Nhưng đó chỉ là những giao dịch mua bán.
- Nhưng đó cũng có thể là kế hoạch tác chiến, hay một báo cáo về tài nguyên của chúng ta. Hay kinh nguyện bí mật của ta. Ngày nay, nhờ có chữ viết và giấy dó, người ta có thể ăn cướp tư tưởng của cả một dân tộc. Bảng đất sét, miếng da dê thì khó thu giấu hơn; nhưng sự kết hợp giữa giấy dó và văn tự By-blos có thể đặt dấu chấm hết cho nền văn minh của từng nước và toàn nhân loại.”
Một bà đi vào.
- Thầy tư tế! Thầy tư tế! Đến mà xem!”
E-li-a và bà góa đi theo họ. Nhiều người từ mọi hướng cùng đổ xô về một điểm; bụi họ làm bay lên làm cho khó thở. Trẻ con chạy trước, cười đùa ầm ỉ. Người lớn đi chầm chậm, im lặng.
Khi họ đến cửa Nam thành, một đám đông đã tụ tập ở đó. Thầy tư tế hỏi nguyên nhân sự lộn xộn nầy.
Một người lính Ak-ba đang quỳ gối, hai tay giang ra, bàn tay bị đóng vào một tấm ván quàng qua sau lưng. Áo quần bị xé rách và một miếng gỗ đã móc mất mắt trái.
Trên ngực, một vài chữ Át-xi-ri được vạch ra bằng dao găm. Thầy tư tế biết chữ Ai-cập, nhưng tiếng Át-xi-ri chưa được phổ biến lắm; thầy phải nhờ một thương nhân dịch giùm.
"Chúng tôi tuyên chiến, đó là nội dung hàng chữ” người đàn ông dịch.
Những người hiện diện chung quanh không ai lên tiếng. E-li-a có thể thấy được nỗi kinh hoàng trên mặt họ.
- Đưa kiếm cho tao, thầy tư tế nói với một người lính.
Người lính tuân lệnh. Thầy tư tế yêu cầu báo cho quan tổng trấn và lãnh binh về sự việc đang xảy ra. Rồi, bằng một động tác nhanh gọn, ông đâm lưỡi kiếm vào tim người lính đang quỳ gối.
Người lính rên lên rồi ngã xuống đất, chết, anh ta được giải thoát khỏi nỗi đau đớn và nhục nhã của một kẻ đã để bị bắt.
- Ngày mai, tôi sẽ lên dâng của lễ trên Ngọn Núi Thứ Năm, ông nói với dân chúng đang sợ hãi. Thần linh sẽ lại nhớ đến chúng ta.”
Trước khi rời đi, ông quay lại phía E-li-a:
- Anh đã tận mắt chứng kiến đó: trời còn tiếp tục ủng hộ chúng ta.
- Xin cho hỏi, E-li-a nói, tại sao ông muốn hy sinh cả dân tộc mình?
- Phải làm như thế để giết đi một ý niệm.”
Khi anh nghe ông ta nói chuyện với người đàn bà sáng nay, E-li-a đã hiểu là ông muốn nói đến ý niệm nào: bảng chữ cái.
- Quá muộn rồi, nó đã được lan truyền ra khắp thế giới, và người As-xi-ri không thể chinh phục toàn thể trái đất.
- Ai nói với anh như vậy? Rút cuộc, các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm đứng về phía họ sao?

Trong nhiều giờ, anh bước đi trong sa mạc, như anh đã làm chiều hôm trước. Anh biết rằng, anh còn ít nhất một buổi chiều và một đêm an bình: người ta không đánh nhau ban đêm, vì binh lính không thấy được địch thủ. Đêm đó, Thiên Chúa đã cho anh cơ hội thay đổi số phận của thành phố đã tiếp nhận anh.
- Sa-lô-mon biết phải làm gì bây giờ, anh giải thích với thiên thần bản mệnh của mình. Và Đa-vít, Môi-sê, I-sa-ac là những tôi trung của Thiên Chúa, nhưng tôi, tôi chỉ là một bầy tôi không kiên định.Chúa cho tôi môt lựa chọn mà có thể cũng là lựa chọn của Ngài.
- Lịch sử tổ tiên chúng có rất nhiều người giỏi, sống vào đúng thời, thiên thần đáp lại. Đừng tin điều đó: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi nơi con người những gì trong khả năng của họ.
- Như vậy, Thiên Chúa chọn nhầm tôi rồi.
- Tất cả những khổ đau đều có đoạn kết. Vinh quang, thảm kịch trong đời cũng thế.
- Tôi sẽ không quên điều đó, E-li-a nói. Nhưng khi nó qua đi, các thảm kịch để lại hệ quả lâu dài và vinh quang để lại những kỷ niệm vô bổ.
Thiên thần không trả lời.
- Tại sao, trong suốt thời gian tôi cư ngụ tại Ak-ba, tôi không thể tìm ra đồng minh để đấu tranh cho hòa bình? Một ngôn sứ đơn độc thì ích lợi gì?
Mặt trời di chuyển trên bầu trời quan trọng như thế nào? Một ngọn núi mọc lên trên thung lũng có ích lợi gì? Một cái giếng đơn độc ích lợi gì? Nhưng chính chúng là công cụ dẫn dắt đoàn lữ hành.
- Tôi buồn lắm, E-li-a nói, quì xuống dang hai tay hướng lên trời. Ước chi tôi được chết đi nơi đây để khỏi thấy những bàn tay nhuốm máu dân tộc tôi, hay một dân tộc ngoại bang. Nhìn đàng sau kia, ngài thấy gì không?
- Anh biết là tôi mù, thiên thần nói. Mắt tôi còn chói lòa vinh quang của Thiên Chúa và tôi không thể thấy bất cứ gì khác. Những gì tôi nhận biết, là do trái tim anh mách bảo. Tất cả những gì tôi nhận biết chính là xung động của những tai ương đang đe dọa anh. Tôi không thể biết có cái gì đàng sau anh.
- Vậy thì tôi nói cho ngài biết: đó là Ak-ba. Lúc nầy, mặt trời chiều chiếu rọi vào nó, nó thật đẹp. Tôi đã quen thuộc với những con đường, tường thành, với dân thành rộng lượng và hiếu khách. Cho dù dân thành còn lệ thuộc vào thương mại và mê tín, họ có trái tim trong sạch như công dân mọi nước khác. Nhờ họ, tôi đã học được nhiều điều mà tôi không biết: bù lại, tôi nghe tiếng họ than van, và, nhờ ơn Chúa soi sáng, tôi đã giải quyết những tranh chấp nội bộ của họ. Tôi thường gặp nguy hiểm, nhưng luôn luôn có ai đó trợ giúp. Tại sao tôi phải chọn lựa giữa việc cứu vớt thành nầy và chuộc lại dân tộc tôi?
- Con người phải lựa chọn, thiên thần trả lời. Đó chính là sức mạnh của con người: quyền quyết định.
- Đó là lựa chọn khó khăn: đòi hỏi phải hy sinh dân tộc nầy để cứu dân tộc kia.
- Chọn con đường cho riêng mình còn khó hơn. Người nào không chọn lựa xem như đã chết trước mặt Chúa, dù họ còn thở, còn đi đứng. Hơn nữa, không ai phải chết đời đời. Đấng Vĩnh Cửu đón nhận tất cả mọi linh hồn và mỗi người sẽ phải tiếp tục bổn phận của mình. Mọi sự hiện diện dưới ánh mặt trời đều có lý do của nó.
E-li-a lại đưa tay lên trời:
- Dân tộc tôi đã rời xa Chúa vì sắc đẹp của một người đàn bà. Xứ Phê-ni-xi có thể bị phá hủy vì một tư tế tin rằng chữ viết là một đe dọa đến các vị thần. Với Đấng đã tạo dựng nên thế giới, Ngài có muốn dùng thảm kịch để viết nên cuốn sách của định mệnh không?
Tiếng E-li-a vang vọng trong thung lũng và tiếng dội quay lại tai ông.
- Anh không hiểu những điều anh đang nói, thiên thần đáp lại. Không có thảm kịch nào cả, chỉ có điều không tránh được. Tất cả những gì xảy ra đều có nguyên nhân: chính anh phải biết phân biệt cái gì là tạm thời, cái gì là vĩnh cửu.
- Cái gì là tạm thời? E-li-a hỏi.
- Cái không thể tránh được.
- Cái gì là vĩnh cửu?
- Những bài học từ cái không tránh được.
Nói xong những lời nầy, thiên sứ ra đi.
Tối đó, lúc ăn cơm, E-li-a nói với bà góa và cậu con trai:
- Chuẩn bị hành trang đi. Chúng ta có thể phải ra đi bất cứ lúc nào..
- Hai ngày rồi anh không ngủ, bà nói. Chiều nay, có sứ giả của quan tổng trấn đến; ông ta yêu cầu anh đến lâu đài. Em nói là anh đi ra thung lũng và anh sẽ ngủ ở đó.
- Em làm thế là đúng, E-li-a đáp. Rồi anh lên phòng và chìm vào giấc ngủ sâu.
Sáng hôm sau, anh thức dậy vì tiếng một nhạc khí. Khi anh bước xuống xem chuyện gì xảy ra, cậu bé đã đứng trước cửa. 
- Ông nhìn kìa, em nói, hai mắt sáng lên vì kích động. Chiến tranh rồi!
Một đơn vị quân đội, nặng nề với giáp bào đang tiến ra khỏi thành phía Nam Ak-ba. Một nhóm nhạc công đi theo, bước chân đều nhịp theo tiếng trống.
- Hôm qua, em sợ mà, E-li-a nói với cậu bé.
- Em không biết là mình có nhiều quân như thế. Lính chúng ta giỏi nhất!
E-li-a rời đứa bé đi ra đường; bất cứ giá nào, anh cũng phải gặp quan tổng trấn. Cư dân thành phố, bị thức dậy vì tiếng nhạc quân hành bị mê hoặc; lần đầu tiên trong đời, họ thấy một đoàn binh trật tự, mặc áo bào đang diễu hành qua, giáo và thuẩn phản chiếu ánh sáng ban mai. Quan lãnh binh đã thành công, ông âm thầm chuẩn bị , không cho ai biết, và bây giờ-E-li-a sợ ông- ông ta làm cho mọi người tin rằng có thể chiến thắng được quân As-xi-ri.
Anh chạy giữa hàng quân đến phía những người đi đầu. Quan lãnh binh và quan tổng trấn ngồi trên ngựa, dẫn đầu đoàn quân.
- Chúng ta đã thỏa thuận, E-li-a vừa nói vừa chạy theo. Tôi có thể làm phép lạ!”
Quan tổng trấn không trả lời. Đoàn quân ra khỏi thành và tiến về phía thung lũng.
Anh biết rằng đội quân nầy chỉ là phù du, anh nhấn mạnh. Quân As-xi-ri đông hơn gấp năm lần và có kinh nghiệm chiến trường! Đừng để Ak-ba bị phá hủy.
- Anh muốn gì ở tôi? Quan tổng trấn hỏi mà không xuống khỏi yên ngựa. Hôm qua, tôi đã cho người đến tìm anh để trao đổi và người ta nói rằng anh không có mặt trong thành. Anh muốn tôi làm gì nữa?
- Đánh nhau với quân As-xi-ri nơi trống trải là tự sát! Ông biết rõ điều ấy!
Quan lãnh binh nghe cuộc nói chuyện mà không can thiệp vào. Ông đã trao đổi về chiến thuật với quan tổng trấn; ngôn sứ Ít-ra-en sẽ ngạc nhiên.
E-li-a chạy theo mấy con ngựa, không biết cần phải làm gì. Đoàn quân rời xa thành phố và hướng đến giữa thung lũng. 
- Xin giúp con, lạy Chúa, anh thì thầm. Như Ngài đã ngừng mặt trời để giúp Jo-xuê đánh trận, xin ngừng thời gian cho con có thể thuyết phục quan tổng trấn.”
Ngay khi anh đang nghĩ như vậy viên lãnh binh hô to:” Dừng!”
Có lẽ đây là dấu chỉ, E-li-a tự nhủ. Mình phải nắm lấy cơ hội.
Đoàn quân đứng thành hai hàng, như một bức tường, các tấm khiên dựa vững chắc trên nền đất, giáo chĩa ra phía trước.
- Anh thấy chiến binh Ak-ba chưa! Quan tổng trấn nói với E-li-a.
- Tôi chỉ thấy những thanh niên mỉm cười trước cái chết.
- Anh nên biết rằng, đây chỉ mới là một đơn vị. Đa số quân ta đang ở lại trong thành. Chúng ta còn có nồi nấu dầu sẵn sàng đổ trên đầu bất kỳ ai muốn trèo lên thành. Chúng tôi đã phân chia ra cất giấu trong nhiều nhà để tránh hỏa công. Theo tính toán của quan lãnh binh, chúng ta có thể cầm cự được hai tháng bao vây. Trong lúc quân As-xi-ri chuẩn bị, chúng ta cũng chuẩn bị.
- Chưa bao giờ người ta nói với tôi điều đó, E-li-a nói.
- Hãy nhớ rằng, dù anh đã giúp đỡ nhân dân Ak-ba, anh vẫn là người ngoại quốc và một vài binh lính sẽ xem anh như là một tên gián điệp.
- Nhưng ngài mong muốn hòa bình!
- Hòa bình vẫn là điều có thể, ngay cả khi bắt đầu trận chiến. Chúng ta chỉ thương thuyết trong tư thế bình đẳng.”
Quan tổng trấn kể rằng, nhiều sứ giả đã được gởi đến Tyr và Si-don để báo cáo mức độ nghiêm trọng của tình hình. Ông đã có thể xin cứu viện; nhưng người ta có thể cho rằng ông không làm chủ được tình thế. Nên ông đã đi đến kết luận đây là giải pháp duy nhất.
Quan lãnh binh đã xây dựng một kế hoạch sáng tạo; khi nào trận chiến bắt đầu, ông ta sẽ trở vào thành để tổ chức kháng cự. Toán quân đang ở đây được lệnh giết càng nhiều địch quân càng tốt, sau đó rút lên núi. Lính chúng tôi biết rõ vùng nầy hơn ai hết và họ có thể tiến công quân As-xi-ri bằng những trận tiến công nhỏ, làm suy giảm áp lực công thành.
Lực lượng cứu viện sẽ đến nhanh chóng , và quân đội As-xi-ri sẽ bị nghiền nát.
- Chúng ta có thể cầm cự trong sáu mươi ngày, nhưng có lẽ không cần lâu đến thế, quan tổng trấn nói với E-li-a.
- Nhưng sẽ có rất nhiều người chết.
- Chúng ta đang đối mặt cái chết. Không ai sợ cả, kể cả tôi.”

Quan tổng trấn cũng ngạc nhiên về lòng can đảm của chính mình. Ông chưa bao giờ phải đối mặt với chiến tranh, và khi cuộc chiến đến gần, ông đã lên kế hoạch trốn khỏi thành phố. Sáng hôm đó, ông đã cùng với những người thân tín nhất lên kế hoạch rút lui. Ông không thể đến Tyr hay Si-don vì ông sẽ bị xem như một tên phản bội, nhưng Je-za-ben sẽ đón tiếp ông vì bà cần có người tín cẩn bên cạnh.
Lúc nầy, khi bước chân vào chiến trường, ông thấy trong mắt quân lính một niềm vui lớn lao-như thể họ đã tập luyện suốt đời cho một mục tiêu và cuối cùng giờ phút trọng đại đã đến.
-Nỗi sợ tồn tại cho đến khi điều không thể xảy ra, ông ta nói với E-li-a. Sau đó, không nên mất thêm năng lượng vì nó.
E-li-a bối rối. Anh cũng có cùng một cảm nghĩ như thế dù cho anh xấu hổ vì điều đó; anh nhớ đến sự kích động của thằng bé khi đoàn quân đi qua.
- Đi đi, quan tổng trấn ra lệnh. Anh là người ngoại quốc, không khí giới, và anh cũng không cần chiến đấu cho một ý tưởng mà anh không tin.
E-li-a đứng yên bất động. 
- Chúng nó sắp đến đấy, quan lãnh binh nhấn mạnh. Anh sẽ không thoát hiểm, nhưng chúng tôi đã sẵn sàng.
Nhưng E-li-a vẫn đứng đó.
Họ nhìn về phía chân trời; không có chút bụi nào, quân As-xi-ri không động binh.
Toán lính hàng đầu cầm chắc giáo hướng về phía trước; các cung thủ đã căng giây cung để chờ lệnh lãnh binh. Một vài người đang múa gươm để làm ấm cơ bắp.
Tất cả đã sẵn sàng, quan lãnh binh lập lại. Họ sẽ tấn công chúng ta.
E-li-a để ý đến vẻ sảng khoái trong giọng nói ông ta. Ông ta có lẽ nóng lòng mong cho trận chiến xảy ra; ông ta muốn chiến đấu và chứng tỏ mình can đảm. Dĩ nhiên, ông đang thấy mình đang đối trận với quân As-xi-ri, những đường kiếm, những tiếng kêu thất thanh và lộn xộn, ông tưởng tượng sau nầy các thầy tư tế Phê-ni-xi sẽ nêu ông làm ví dụ cho lòng can đảm và thiện chiến.
Quan tổng trấn cắt đứt suy tư của ông:
- Họ không động binh.
E-li-a nhớ lại mình đã cầu xin Chúa: cho mặt trời dừng lại trên trời, như đã xảy ra với Jo-suê. Anh cố gắng nói chuyện với thiên thần bản mệnh , nhưng không nghe tiếng ngài.
Dần dần, các ngọn giáo hạ xuống, các cung thủ buông giây, gươm được cất vào vỏ. Mặt trời ban trưa, binh lính ngất xỉu vì nắng nóng, nhưng đội quân đã trụ lại cho đến chiều.
Khi mặt trời lặn, đoàn quân trở lại Ak-ba. Họ hình như ngạc nhiên vì còn sống thêm một ngày nữa.
Chỉ còn một mình E-li-a đứng trong thung lũng. Anh bước đi vô định một lúc; bỗng nhiên anh thấy vầng sáng. Thiên sứ của Chúa xuất hiện trước mặt anh.
Thiên Chúa đã nghe lời anh kêu xin. Ngài đã thấy rõ sự giày vò trong lòng anh.
E-li-a ngước nhìn lên trời và tạ ơn.
- Thiên Chúa là nguồn mạch vinh quang và quyền năng. Ngài đã cầm chân quân As-xi-ri.
- Không, thiên sứ nói. Anh đã nói là sự lựa chọn phải thuộc về Thiên Chúa, Và Ngài đã chọn cho anh.”
- Đi thôi, anh nói với người đàn bà và con bà.
- Con không muốn đi, cậu bé trả lời. Con hãnh diện vì quân đội Ak-ba.
Mẹ cậu buộc cậu phải thu gom đồ đạc:” Chỉ mang vừa đủ sức con.”
- Mẹ, mẹ quên là chúng ta nghèo và con đâu có gì.
E-li-a lên phòng của mình. Ông nhìn quanh, như thể đây là lần đầu cũng là lần cuối anh thấy nó; rồi anh trở xuống và quan sát bà góa đang thu dọn các bình mực.
- Cảm ơn anh đã đem em theo, bà nói. Khi em kết hôn, em chỉ mới mười lăm tuổi, và em không biết gì về cuộc đời. Hai gia đình đã sắp xếp mọi chuyện, em đã được nuôi dạy từ khi còn bé cho thời điểm đó và chuẩn bị cho đám cưới.
- Em yêu anh ta không?
- Em đã ép lòng mình làm như vậy. Vì em không được lựa chọn, em tự nhủ đó là con đường tốt nhất. Khi chồng em chết. em đã quen với những ngày, những đêm vô vị, em đã cầu xin các thần Ngọn Núi Thứ Năm, lúc đó em còn tin vào họ- cho em chết khi con em có thể tự lập.
Rồi anh đến. Em đã nói với anh và em lặp lại: từ ngày đó, em đã khám phá ra vẻ đẹp của thung lũng, bóng mờ của những ngọn núi in lên bầu trời, vầng trăng khi tròn khi khuyết cho lúa mì mọc lên. Thường khi, ban đêm, khi anh ngủ, em đi dạo quanh Ak-ba, em nghe tiếng trẻ con khóc chào đời, tiếng hát của những người đàn ông uống rượu sau công việc, bước chân mạnh mẽ của lính canh trên bờ thành cao. Biết bao nhiêu lần, em đã thấy những cảnh đó nhưng đâu biết chúng đẹp đến thế? Biết bao nhiêu lần em nhìn trời mà không thấy trời cao thăm thẳm? Biết bao nhiêu lần em nghe những tiếng động của Ak-ba mà không hiểu rằng đó là một phần cuộc sống của em? Em đã tìm lại được nguồn khát khao vô tận cuộc sống. Anh đã khuyên em nên học bảng chữ cái By-blos và em đã nghe lời anh. Lúc đầu, em nghĩ là chỉ để làm vui lòng anh, nhưng sau đó em say mê việc em làm và em khám phá ra điều nầy: ý nghĩa cuộc sống của em là cái ý nghĩa mà em muốn gán cho nó.
E-li-a vuốt tóc bà. Đây là lần đầu tiên anh làm như vậy.
- Tại sao trước đây anh không làm như thế? Bà hỏi.
- Vì anh sợ. Nhưng hôm nay, khi chờ đợi trận chiến, anh đã nghe quan tổng trấn nói chuyện và anh nghĩ tới em. Nỗi sợ kéo dài cho đến nơi bắt đầu điều không thể tránh được; từ đó, nó không còn ý nghĩa gì. Và chúng ta chỉ còn hy vọng lấy được quyết định đúng.
- Em sẵn sàng, bà nói.
- Chúng ta về Ít-ra-en. Thiên Chúa đã chỉ cho anh những gì phải làm, và anh sẽ làm. Je-za-ben sẽ phải rời xa quyền lực.
Bà im lặng. Như tất cả mọi phụ nữ Phê-ni-xi, bà hãnh diện về nàng công chúa nầy. Khi đến nơi, bà sẽ thuyết phục anh thay đổi ý định.
- Đây sẽ là chuyến đi dài và chúng ta sẽ không được nghỉ cho đến khi anh đã làm xong việc Ngài yêu cầu, E-li-a nói vì anh biết ý nghĩ của bà. Tuy nhiên, tình yêu của em sẽ nâng đỡ anh và lúc nào anh mệt mỏi trong những trận chiến vì Danh Ngài, anh sẽ có thể nghỉ ngơi trong vòng tay em.
Cậu bé lại gần, một cái túi nhỏ trên vai. E-li-a nắm tay em và nói với bà góa:
- Đã đến giờ. Khi em đi ngang qua các đường phố Ak-ba, em hãy ghi khắc trong em những kỷ niệm, mỗi căn nhà, mỗi tiếng động. Bởi vì em sẽ không bao giờ còn gặp lại.
- Em sinh ra ở Ak-ba, bà nói. Và thành phố nầy sẽ luôn ở trong tim em.
Cậu bé lắng nghe và cậu tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ quên những lời mẹ vừa nói. Nếu một ngày kia, được trở về, em sẽ thấy lại thành phố như thấy mặt mẹ vậy.

Trời đã tối khi thầy tư tế đến chân Ngọn Núi Thứ Năm. Trong tay phải, ông cầm cây gậy và tay trái cầm một túi xách. 
Ông lấy dầu thánh từ trong túi xức lên trán và hai tay. Rồi với cây gậy, ông vẽ lên đất hình con bò mộng và con báo, tượng trưng cho thần Bão tố và Nữ thần Lớn. Ông đọc kinh; rồi ông dang tay lên trời để nhận linh ứng của thần linh.
Các thần im lặng. Họ đã nói những gì cần phải nói và bây giờ các thần chỉ đòi hỏi việc hoàn thành các nghi lễ. Các ngôn sứ đã biến mất khắp mặt đất- trừ ở Ít-ra-en, một nước chậm tiến, dị đoan, ở đó họ còn tin rằng con người có thể tiếp xúc với Vũ Trụ.
Ông nhớ lại, hai thế hệ trước, Tyr và Si-don đã buôn bán với vị vua Je-ru-sa-lem tên là Sa-lô-mon. Ông ta đang xây một ngôi đền lớn và muốn trang trí với những gì tốt nhất có trên đời; do đó ông đã mua gỗ bá hương của Phê-ni-xi, có người gọi là Li-ban. Vua xứ Tyr đã cung cấp những vật liệu cần thiết, bù lại ông được nhận hai mươi thành trong vùng Ga-li-lê, nhưng những thành nầy vua Li-ban không thích. Rồi Sa-lô-mon đã giúp vua đóng những chiếc tàu đầu tiên, và từ đó Phê-ni-xi có một đội thương thuyền lớn trên thế giới.
Vào thời đó, Ít-ra-en còn là một nước lớn- dù họ thờ một Thiên Chúa Độc Nhất, mà người ta không biết ngay cả tên và người ta đơn giản gọi ngài là Chúa. Một công chúa của Si-don đã thành công trong việc đưa Sa-lô-mon trở về với đức tin chân thật, và ông đã cho dựng bàn thờ tôn kính các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm. Nhưng người Ít-ra-en vẫn cứng đầu và xác quyết rằng “Chúa” đã phạt vị vua khôn ngoan nhất trong các vua đến nỗi các cuộc chiến đã buộc ông phải xa rời quyền lực.
Nhưng Je-rô-bô-am, người kế vị ông, vẫn tiếp tục thờ phượng như Sa-lô-mon. Ông cho đúc hai con bò vàng cho dân Ít-ra-en thờ phụng. Chính lúc đó, các ngôn sứ nhập cuộc và bắt đầu một chuộc chiến không khoan nhượng với vương triều.
Je-za-ben có lý: cách duy nhất để duy trì đức tin chân thật là phải giết hết các ngôn sứ. Người đàn bà dịu hiền, được giáo dục trong sự bao dung, chán ghét chiến tranh, biết rằng đến lúc nào đó, bạo lực là cách duy nhất. Máu đang vấy tay bà bây giờ sẽ được các thần mà bà phụng sự tha thứ.
Rồi tay tôi cũng nhuốm máu, thầy tư tế nói với ngọn núi câm lặng trước mặt mình. Cũng như các ngôn sứ là lời chúc dữ cho Ít-ra-en, chữ viết là lời chúc dữ cho Phê-nê-xi. Cũng như các ngôn sứ, chữ viết cũng có thể gây nên một cái xấu không thể sửa chữa được và phải chận đứng khi còn có thể. Thần Thời gian không thể bỏ rơi chúng con lúc nầy.
Ông lo âu vì những gì diễn ra sáng nay; quân thù đã không tấn công. Trong quá khứ, thần Thời gian đã quay mặt đi với Phê-ni-xi, nổi giận với dân chúng. Lửa các ngọn đèn đã tắt, chiên mẹ và bò cái bỏ rơi con, lúa mì và lúa mạch không chín. Thần Mặt trời đã đã gởi đến những nhân vật quan trọng- chim ưng và thần Bão- nhưng thất bại. Cuối cùng, Đại Nữ thần cấp tốc gởi đến một con ong và nó thấy thần Thời gian đang ngủ trong rừng. Con ong đốt ngài. Thần thức dậy, giận dữ và bắt đầu tàn phá chung quanh mình. Đã phải bắt lấy thần và trích xuất sự hận thù trong tim ngài, rồi mọi sự trở lại bình thường.
Nếu thần quyết định rút lui một lần nữa, trận chiến có lẽ đã không xảy ra. Quân As-xi-ri sẽ ở mãi trên lối vào thung lũng, và Ak-ba tiếp tục hiện hữu.
Lòng can đảm là nỗi sợ đang cầu nguyện, ông nói. Chính vì thế mà tôi đến đây; bởi vì tôi không thể ngã quị lúc chiến đấu. Tôi phải chứng minh cho chiến binh Ak-ba rằng bảo vệ Ak-ba là chính đáng. Đó không phải chỉ là một giếng nước, một khu chợ, lâu đài quan tổng trấn. Chúng ta sắp đối mặt với quân As-xi-ri vì chúng ta phải nêu gương.
Chiến thắng của quân As-xi-ri sẽ chấm dứt mãi mãi nguy hại của chữ viết. Người chiến thắng sẽ áp đặt chữ viết của họ, phong tục của họ nhưng vẫn tiếp tục thờ các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm; đó mới là cái quan trọng.
Sau nầy, các nhà hãi hành của chúng tôi sẽ đưa câu chuyện về những chiến công của quân đội chúng tôi đến những xứ khác. Các thầy tư tế sẽ nhớ đến tên họ và cái ngày Ak-ba cố gắng chống lại quan xâm lược As-xi-ri. Các họa sĩ sẽ vẽ những ký tự Ai-cập lên giấy dó, chữ viết By-blos sẽ tàn lụi. Các bản văn linh thánh sẽ vẫn ở trong tay những người sinh ra để học nó. Như thế, các thế hệ sau nầy sẽ cố gắng bắt chước những gì chúng tôi đã làm, và sẽ xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn.
Nhưng hôm nay, ông nói tiếp, chúng tôi phải thua trận nầy. Chúng tôi sẽ chiến đấu cách can đảm, nhưng chúng tôi đang ở thế yếu; và chúng tôi sẽ chết trong vinh quang.
Lúc đó, thầy tư tế lắng nghe tiếng của đêm và hiểu rằng ông có lý. Sự im lặng nầy báo trước trận chiến cuối cùng, nhưng người dân Ak-ba đã giải thích nó cách sai lạc; họ đã hạ giáo xuống và vui chơi thay vì canh gác. Họ không lưu ý đến bài học của thiên nhiên: các súc vật đều im lặng khi nguy cơ đến gần.
Xin hoàn thành ý muốn của các thần. Cầu trời sập xuống trên đất, vì chúng tôi đã làm tất cả những gì phải làm và chúng tôi đã tuân theo truyền thống, ông nói thêm.

E-li-a, người đàn bà và thằng bé đi trên con đường dẫn họ về Ít-ra-en; không cần phải đi qua trại lính As-xi-ri, nằm ở phía nam. Trăng tròn giúp họ bước đi dễ dàng, nhưng đồng thời rọi lên những cái bóng kỳ dị, những hình dáng ghê sợ lên các tảng đá và các con đường mòn đầy đá cuội trong thung lũng.
Từ trong bóng tối, xuất hiện thiên sứ của Chúa. Ngài cầm một thanh gươm lưỡi lửa trong tay phải.
- Anh đi đâu? Thiên thần hỏi.
- Về Ít-ra-en, E-li-a đáp.
- Chúa đã gọi anh?
- Tôi biết phép lạ mà Chúa mong tôi làm. Và bây giờ, tôi phải thực hiện.
- Chúa đã gọi anh?
E-li-a im lặng.
- Chúa đã gọi anh? Thiên sứ lặp lại lần thứ ba.
- Chưa.
- Vậy thì quay lại vì anh chưa hoàn thành sứ mệnh của mình. Thiên Chúa chưa gọi anh.
- Ít nữa, hãy để cho họ đi, họ không có việc gì phải làm ở đây, E-li-a cầu xin.
Nhưng thiên sứ không còn ở đó. E-li-a ném cái xách ông đang mang xuống đất. Anh ngồi xuống giữa đường, khóc nức nở.
- Sao vậy? người đàn bà và cậu bé hỏi vì họ đã không nghe, không thấy gì cả.
- Chúng ta phải trở lại thôi, anh nói. Chúa muốn như thế.
Anh không ngủ được. Anh thức dậy lúc nửa đêm và cảm thấy căng thẳng trong không khí chung quanh anh; một cơn gió chướng thổi trên đường phố, gieo rắc sợ hãi và nghi ngại.
Trong tình yêu với một người đàn bà, con đã khám phá ra tình yêu dành cho mọi tạo vật, anh cầu nguyện trong thinh lặng. Con cần người đàn bà đó. Con biết là Chúa không quên con là một công cụ của Ngài, có thể là cái công cụ yếu đuối nhất mà Ngài đã chọn. Lạy Chúa , xin giúp con, vì con phải được nghỉ ngơi thanh thản giữa trận tiền.
Anh nhớ lại ý kiến của quan tổng trấn về sự vô ích của sợ hãi. Dù vậy, anh không ngủ được.” Con cần sức mạnh và bình tĩnh; xin cho con nghỉ ngơi chừng nào còn có thể.
Anh muốn gọi thiên thần bản mệnh, để nói chuyện một chút; nhưng anh sợ phải nghe những điều anh không muốn nghe và anh thay đổi ý định. Để thư giãn, anh xuống nhà dưới; các túi xách người đàn bà đã chuẩn bị cho cuộc chạy trốn còn chưa mở ra.
Anh nghĩ đến phòng ngủ của bà. Anh nhớ tới lời Chúa phán với Môi-se trước trận đánh:” Ai yêu một người đàn bà và chưa lấy bà ta, hãy trở về nhà bà ta, để, nếu nó chết trong trận chiến, một người đàn ông khác không đến chiếm hữu bà.”
Họ chưa sống chung với nhau. Nhưng đêm khó chịu, chưa phải lúc.
Anh quyết định mở các túi xách và sắp đặt lại mọi cái. Anh khám phá ra rằng, bà đã mang theo, ngoài những quần áo của bà, còn có cả những dụng cụ bà dùng để vẽ chữ
Anh cầm một cây viết, làm ẩm một tấm đất sét và viết một vài chữ; anh đã học cách làm khi nhìn người đàn bà viết.
Thật đơn giản và sáng tạo!’ anh nghĩ. Thường, khi anh ra giếng lấy nước, anh nghe những lời bình phẩm của các bà:”Người Hy-lạp đã ăn cắp phát kiến lớn nhất của chúng ta.” E-li-a biết rằng nói như thế không đúng: điều chỉnh mà họ đã làm bằng cách thêm vào các phụ âm đã làm cho Bảng chữ cái thành một công cụ mà các dân các nước đều có thể sử dụng được. Hơn nữa, họ đã gọi các tập hợp sách của họ là “Biblia” để vinh danh thành phố đã khai sinh ra phát minh đó.
Sách của người Hy-lạp viết trên da súc vật. Đó là một vật liệu khá mong manh để lưu trử chữ viết. E-li-a thầm nghĩ; da không bền bằng các bảng đất sét và dễ bị mất trộm. Còn giấy dó, nó sẽ hư sau một thời gian sử dụng và có thể bị nước tiêu hủy. “ Da thú và giấy dó là vật liệu mau hư; chỉ có các tấm đất sét là trường tồn”, anh ngẩm nghĩ.
Nếu Ak-ba còn tồn tại, anh sẽ khuyến nghị với quan tổng trấn ra lệnh viết lịch sử thành phố và lưu trử trên những bảng đất sét trong một căn phòng đặc biệt để những thế hệ mai sau có thể đọc được. Nếu một lúc nào đó, các thầy tư tế Phê-ni-xi, những người nắm giữ ký ức lịch sử của dân tộc, bị biến mất, các việc làm của chiến binh và thi nhân sẽ chìm vào quên lãng.
Ông thích thú vẽ cùng một vài chữ nhưng theo thứ tự khác nhau tạo thành những chữ khác nhau. Anh kinh ngạc vì kết quả nầy. Việc làm nầy làm anh hết căng thẳng và anh lại ngủ tiếp.

Một tiếng động lớn đánh thức anh; cửa phòng anh bị ném xuống đất.
Không phải mơ. Không phải các đạo binh thiên quốc đang đánh trận.”
Những bóng đen xuất hiện từ khắp mọi hướng, những tiếng la thác loạn bằng một ngôn ngữ anh không hiểu.
- Quân As-xi-ri.
Những cánh cửa khác rơi xuống, tường nhà bị những nhát búa đánh đổ sập, tiếng reo hò của quân xâm lăng trộn lẫn với tiếng kêu cứu vang lên từ quảng trường. Anh cố gắng đứng dậy, nhưng một bóng đen xô anh ngã xuống. Một tiếng động lớn làm rung chuyễn tầng trên.
Lửa, E-li-a nghĩ. Chúng đã đốt nhà.
- Ông đấy à! Một ai đó nói tiếng Phê-ni-xi. Mầy là lãnh đạo! Mầy trốn trong nhà mụ đàn bà như một tên hèn.
E-li-a nhìn khuôn mặt người mới nói; ánh lửa soi sáng căn phòng, và anh thấy một người đàn ông râu dài, mặc binh phục. Vâng, quân As-xi-ri đã đến.
- Các ông đã tấn công ban đêm? Anh hỏi.
Nhưng người kia không trả lời. E-li-a thấy ánh sáng của các thanh gươm trần và một người lính chém nhẹ vào tay phải anh.
Anh nhắm mắt; cả cuộc đời anh diễn ra trước mắt. Anh trở về vui đùa trong nhũng con đường phố nơi anh sinh ra, lần đầu tiên anh lên Giê-ru-sa-lem, anh ngửi thấy mùi gỗ trong xưởng mộc, lần đầu tiên anh bị choáng ngợp vì biển cả bao la và những bộ quần áo người ta mặc trong những thành phố trù phú ven biển. Anh thấy mình đang đi khắp các thung lũng, núi non của Đất Hứa, anh nhớ rằng anh đã gặp Je-za-ben, bà còn có vẻ như là một cô bé và làm cho những người đến gần bà vui sướng. Anh lại chứng kiến việc tàn sát các ngôn sứ và nghe tiếng Chúa bảo anh đi ra ngoài sa mạc. Anh thấy lại đôi mắt của người đàn bà đợi anh ở cổng thành Sa-rep-ta- mà người bản địa gọi là Ak-ba- và hiểu ra là anh đã yêu bà từ cái nhìn đầu tiên. Anh leo lên Ngọn Núi Thứ Năm, làm cho đứa bé sống lại và được dân thành xem như là một người khôn ngoan và chính trực. Anh nhìn trời ở đó các chòm tinh tú đang di chuyển, kinh ngạc vì mặt trăng khi khuyết khi tròn, cảm thấy lạnh, nóng, mùa thu và mùa xuân, cảm nhận một lần nữa mưa rơi, tiếng sét. Mây muôn hình muôn vẽ và nước chảy dưới sông. Anh sống lại ngày anh thấy quân As-xi-ri dựng cái trại đầu tiên, rồi cái thứ hai và những cái khác, những thiên sứ đi đi lại lại, tay cầm gươm lưỡi lửa trên con đường xứ Ít-ra-en, những đêm không ngủ, những chữ viết trên bảng đất sét, và…
Anh trở lại hiện tại. Anh nghĩ đến điều xảy ra ở tầng dưới, bất cứ giá nào, cũng phải cứu cậu bé và mẹ nó.
- Cháy! Anh nói với lính xâm lược. Căn nhà đang cháy!”
Anh không sợ; lo lắng duy nhất của anh là bà góa và con trai bà. Ai đó dúi đầu anh xuống đất, và anh cảm thấy vị của đất trong miệng. Anh hôn đất, nói với đất là anh yêu đất biết bao và phân bua là anh đã làm hết sức để ngăn cản điều đó. Anh muốn tự giải phóng mình khỏi những người đang khống chế anh, nhưng ai đó đã đạp chân lên ngực anh.
Có lẽ bà ta đã chạy trốn, anh nghĩ. Họ sẽ không làm gì phụ nữ chân yếu tay mềm.
Một sự bình an sâu xa chiếm lĩnh tâm trí anh. Có lẽ Thiên Chúa đã nhận ra anh là người không thích hợp với hoàn cảnh nầy và Ngài đã tìm ra một ngôn sứ khác để cứu Ít-ra-en khỏi tội. Cái chết rồi cũng đến, như anh cầu mong. Anh chấp nhận số phận và chờ nhát chém ân huệ.
Một vài giây trôi qua; quân lính vẫn còn dày vò anh, máu chảy ra từ vết thương, nhưng nhát chém ân huệ không đến.
- Tôi xin các ông, giết tôi nhanh lên! Anh la lên, nghĩ rằng có ai đó trong số họ hiểu tiếng anh nói.
Không ai quan tâm tới lời anh. Họ hăng hái tranh luận với nhau, như thể đã có một sai lầm nào đó. Lính bắt đầu đánh anh và lần đầu tiên, E-li-a cảm thấy bản năng sinh tồn trổi dậy. Ông kinh hãi.
Mình không thể muốn sống lâu hơn, anh nghĩ. Vì mình sẽ không ra được khỏi phòng nầy.
Nhưng không có gì xảy ra. Thời gian như ngừng lại trong hỗn độn của tiếng kêu la, tiếng ồn và bụi bặm. Thiên Chúa có lẽ đã hành xử như Ngài đã làm với Gio-suê, ngừng thời gian trong trận đánh. 
Lúc đó, anh nghe tiếng la của người đàn bà bên dưới. Trong một cố gắng phi thường, anh xô ngã một tên lính và đứng dậy, nhưng lập tức anh bị xô xuống đất. Một người lính đánh vào đầu anh và anh bất tỉnh.
Một vài phút sau, anh tỉnh lại. Quân As-xi-ri đã kéo anh ra đường.
Còn choáng váng, anh ngẩng đầu lên: tất cả các nhà trong khu phố đang cháy.
- Một phụ nữ vô tội, không thể tự vệ đang kẹt bên trong! Cứu bà ta!
Kêu la, chạy, hổn độn tứ phía. Anh cố gắng đứng lên nhưng người ta lại xô anh ngã xuống.
Lạy Chúa, Chúa muốn làm gì con thì làm, bởi vì con đã hiến dâng cả sự sống và sự chết con cho Chúa, E-li-a cầu nguyện. Nhưng xin cứu người đã đón tiếp con!
Ai đó cầm tay anh kéo lên.
Đến xem, người sĩ quan As-xi-ri biết tiếng nói của anh nói. Mầy đáng được như thế.
Hai người lính cầm tay anh và đẩy anh tới trước cửa. Căn nhà bị lửa hoành hành và lửa sáng rực một vùng chung quanh. Tiếng kêu la vang lên khắp nơi: một cậu bé khóc, mấy ông già xin tha tội, mấy bà tuyệt vọng tìm con. Nhưng anh không nghe tiếng kêu cứu của người đã đón tiếp anh.
- Cái gì vậy? Có một phụ nữ và một thằng bé trong đó! Tại sao các ông làm vậy?
- Bà ta đã cố che dấu ông tổng trấn Ak-ba.
- Tôi không phải là tổng trấn Ak-ba! Các anh nhầm rồi.
Viên sĩ quan As-xi-ri lôi anh tới ngưỡng cửa. Mái nhà đã đổ vào trong đám cháy, và người đàn bà bị vùi một nửa dưới đám đổ nát. E-li-a chỉ thấy bàn tay bà vẫy vẫy trong tuyệt vọng. Bà kêu cứu, cầu xin người ta đừng để bà bị chết thiêu.
- Tại sao tha cho tôi mà bắt bà ấy phải chịu như thế? Ông van nài.
- Chúng ta không tha cho mày đâu, chúng tao muốn mày đau đớn thật nhiều. Vị tướng của chúng tao đã bị ném đá cho đến chết nhục nhã, trước cửa thành. Ông ta đến để kiếm tìm cái sống nhưng lại bị kết án chết. Mầy cũng sẽ cùng chung số phận.
E-li-a tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Lính dẫn anh đi. Họ đi qua những con đường Ak-ba trong cái nóng kinh khủng- binh lính chảy mồ hôi, vài người hình như xúc động vì điều họ vừa thấy. E-li-a chống cự và cầu trời to tiếng, nhưng người As-xi-ri, cũng giống như Thiên Chúa, họ im lặng.
Họ đi đến trung tâm quảng trường. Đa số các công thự của thành phố đang cháy, tiếng gầm rú của đám cháy hòa với tiếng kêu la của dân Ak-ba.
May là còn có cái chết.
Biết bao nhiêu lần, anh đã nghĩ đến điều đó, từ cái ngày trốn trong chuồng bò!
Những tử thi, quân Ak-ba, đa phần không còn đồng phục, nằm đầy mặt đất. Người ta chạy lung tung mọi hướng, không biết đi đâu, không biết tìm kiếm cái gì, bị thúc đẩy bởi nhu cầu phải làm như đang làm gì đó, và chiến đấu chống lại cái chết và sự hủy diệt.
Họ chạy vậy làm gì? Anh tự hỏi. Họ không thấy là thành phố đã ở trong tay quân thù và họ không còn chỗ nào để trốn tránh sao. Mọi sự diễn ra quá nhanh. Quân As-xi-ri lợi dụng quân số đông và họ đã tránh cho chiến binh mình khỏi giao chiến. Quân đội Ak-ba đã bị tiêu diệt mà gần như chưa chiến đấu.
Ở trung tâm quảng trường, người ta bắt E-li-a quỳ và trói hai tay. Anh không còn nghe tiếng rên la của người đàn bà; có lẽ bà đã chết nhanh chóng, không bị hành hạ vì cái chết cháy chậm chạp. Bà đã ở trong tay Chúa. Và bà đã ôm con mình vào lòng.
Một toán lính As-xi-ri dẫn đến một tù nhân mà khuôn mặt đã bị những nhát kiếm làm cho biến dạng, nhưng E-li-a vẫn nhận ra đó là quan lãnh binh.
Hoan hô Ak-ba! ông la lớn. Phê-ni-xi và những người lính đã chiến đấu chống quân thù hôm nay muôn năm! Giết chết bọn hèn nhát tấn công trong đêm tối!
Ông lãnh binh chỉ có thời gian nói xong câu, thanh gươm của một viên tướng As-xi-ri đã hạ xuống và đầu ông rơi lăn lóc trên đất.
Bây giờ tới lượt mình, E-li-a thầm nhũ. Mình sẽ gặp lại bà ta trên thiên đàng và chúng ta sẽ cầm tay nhau đi dạo chơi.
Chính lúc đó, một người đi đến và bắt đầu trao đổi với các sĩ quan. Đó là một cư dân Ak-ba, một người thường đến tham dự các buổi họp trên quảng trường. E-li-a nhớ là anh đã giúp ông ta giải quyết một vụ tranh chấp lớn với người láng giềng.
Lính As-xi-ri tranh luận càng lúc càng to tiếng. Người đàn ông quỳ xuống, hôn chân một người trong số họ, chỉ tay về phía Ngọn Núi Thứ Năm và khóc như trẻ con. Cơn giận của người As-xi-ri hình như dịu đi.
Cuộc trao đổi hình như không chấm dứt. Người đàn ông cầu khẩn và không ngừng khóc, chỉ vào E-li-a và ngôi nhà nơi quan tổng trấn ở. Quân lính hình như không hài lòng.
Cuối cùng, viên sĩ quan biết nói tiếng địa phương lại gần ông:
- Gián điệp của ta, ông nói và chỉ người đàn ông, xác quyết là chúng tao nhầm. Chính hắn là người đã cung cấp cho chúng ta bản đồ thành phố do đó chúng tao có thể tin nó. Mầy không phải là người tụi tao muốn giết.
Ông dùng chân đá E-li-a và anh ngã xuống đất. 
- Mầy dự tính đi Ít-ra-en để lật đổ bà hoàng hậu phải không?
E-li-a không trả lời.
- Nói, phải hay không? Viên sĩ quan gằn giọng. Rồi mầy có thể ra đi về nhà, kịp lúc để cứu người đàn bà và thằng bé.
- Vâng, đúng như thế.
Có lẽ Chúa đã nghe lời anh và giúp anh cứu họ.
- Chúng tao có thể đem mầy đến Tyr và Si-don như là tù nhân, viên sĩ quan nói tiếp. Nhưng chúng tao còn phải đánh nhiều trận, và mầy sẽ là một gánh nặng. Chúng tao có thể đòi tiền chuộc, nhưng đòi ai? Mầy là người lạ , ngay cả trên quê hương mầy. 
Dùng chân, viên sĩ quan đay nghiến vào mặt anh.
0 Mầy là đồ vô dụng. Mầy không có ích cho ai cả, bạn cũng như thù. Mầy cũng như thành phố nầy; không cần phải để lại một phần quân đội ở đây để giữ nó dưới sự cai trị của chúng tao. Khi chúng tao đã chiếm vùng duyên hải, thế nào Ak-ba sẽ thuộc về chúng tao.
- Cho tôi hỏi, E-li-a lên tiếng, một câu thôi.
Viên sĩ quan nhìn anh khinh bỉ.
- Tại sao các anh lại tấn công vào ban đêm? Các anh không biết rằng chiến tranh phải diễn ra ban ngày sao?
- Chúng tao đã không phạm luật. Không có luật lệ nào cấm điều đó, viên sĩ quan đáp. Và chúng ta đã có dư thời gian để tìm hiểu chiến trường. Chúng bây quá quan tâm gìn giữ tập tục mà không biết rằng thời thế đã thay đổi.
Không một lời, toán lính rời đi. Tên gián điệp đến gần và mở trói cho anh.
- Tôi tự hứa với lòng mình, một ngày nào đó tôi sẽ báo đáp ân tình của ông. Khi lính As-xi-ri vào trong lâu đài, một tên đầy tớ đã bảo rằng, người họ truy tìm đang trốn trong nhà bà góa. Trong lúc họ chạy đến đó, ông tổng trấn đã trốn đi.
E-li-a không nghe. Lửa cháy lách tách từ mọi hướng và tiếng kêu la vẫn vang lên.
Giữa cảnh hỗn loạn, người ta để ý thấy một nhóm đang tuân thủ kỷ luật: tuân theo một lệnh vô hình nào đó, quân As-xi ri âm thầm rút lui.
Trận chiến Ak-ba đã chấm dứt.
Bà ta chết rồi, anh tự nhủ. Tôi không muốn trở lại đó, bà ta chết rồi. Hay là một phép lạ đã xảy ra, và bà ta sẽ đến đây tìm mình.
Trái lại, tim anh lệnh cho anh đứng dậy và đi về nhà. E-li-a đấu tranh với chính mình; không phải chỉ tình yêu với một người đàn bà đang gặp nguy hiểm, nhưng cả cuộc đời anh, lòng tin của anh vào ý định của Thiên Chúa, ra đi khỏi quê nhà, ý tưởng cho rằng anh có một sứ mệnh phải hoàn thành và anh có khả năng hoàn thành.
Anh nhìn chung quanh, tìm một thanh kiếm để tự sát, nhưng người As-xi-ri đã lấy đi hết khí giới của Ak-ba. Anh muốn lao vào lửa, nhưng sợ đau.
Anh đứng bất động một lúc. Dần dần, anh lấy lại bình tĩnh và suy nghĩ về hoàn cảnh của mình hiện nay. Người đàn bà và con bà có lẽ đã rời khỏi trái đất nầy, nhưng anh phải chôn cất họ như truyền thống đòi buộc. Làm việc cho Chúa, dù Ngài có hiện hữu hay không, là nguồn an ủi duy nhất của anh trong lúc nầy. Một khi nghĩa vụ tôn giáo hoàn tất, anh sẽ để cho mình rơi vào đau khổ và nghi hoặc.
Ngoài ra, nếu họ còn sống, anh không thể đứng nhìn.
Tôi không muốn thấy họ, mặt mày cháy nám, da trầy ra khỏi thịt. Linh hồn họ dạo chơi thong dong trên trời.
Dù vậy , anh vẫn đi về hướng ngôi nhà, vừa đi vừa thở, không nhìn thấy đường vì khói mù mịt. Anh từ từ nhận ra tình trạng của thành phố bây giờ. Cho dù địch quân đã rút đi, sự kinh hoàng càng lúc càng tăng. Dân thành vẫn đi lang thang vô định, khóc lóc, kêu van thần thánh. 
Lúc đó, anh muốn tìm ai để xin giúp đỡ, anh chỉ thấy một người dáng vẻ ngơ ngác, mất hồn.
Tốt nhất là tự mình đi thẳng đến nhà hơn là nhờ trợ giúp.” 
Anh cũng biết rõ Ak-ba như thành phố nơi anh sinh ra, và anh đã có thể định hướng dù anh không còn nhận ra những nơi quen thuộc mà anh thường đi qua. Tiếng kêu than lúc nầy càng rõ ràng. Dân chúng đã bắt đầu hiểu rằng một thảm họa đã xảy ra và phải làm gì đó.
- Ở đây có một đứa bé!
- Cho thêm nước, không dập lửa được!
- Xin giúp tôi, chồng tôi bị kẹt bên trong.

Anh đến nơi mà nhiều tháng trước đây, anh đã được tiếp đón như một người bạn. Một bà già trần truồng,đang ngồi giữa đường, không xa căn nhà bao nhiêu. E-li-a muốn đến giúp bà, nhưng bà từ chối;
- Bà ta sắp chết rồi, bà già la lên. Làm gì đi! Xô cái tường đang đè bà ta đi!
Và bà bắt đầu kêu la hoảng loạn. E-li-a nắm tay đẩy bà ra vì tiếng kêu la của bà làm cho anh không nghe được tiếng rên rỉ của người đàn bà. Chung quanh anh, tất cả là hoang tàn- mái và tường đã sập và anh khó phán đoán được anh đã nghe tiếng rên từ đâu. Lửa đã dịu lại, nhưng nóng không thể chịu được; anh bước qua đống đổ nát dưới đất và bước vào nơi trước kia là phòng của bà.
Mặc cho tiếng ồn ào bên ngoài, anh có thể nhận ra tiếng rên. Tiếng bà.
Cách vô thức, anh phủi bụi trên áo như thể để sửa soạn cho tươm tất. Anh đứng im một lúc, cố gắng tập trung. Anh nghe tiếng lửa cháy lốp bốp, tiếng kêu cứu của những người bên cạnh bị kẹt trong nhà- và anh muốn bảo người ta im đi vì anh cần biết bà góa và cậu bé đang ở đâu. Rất lâu sau, anh nghe một tiếng động; ai đó cào vào đống gỗ dưới chân anh.
Anh quỳ xuống và bắt đầu cào xới như điên. Anh bốc đất, đá, gỗ. Cuối cùng, tay anh chạm cái gì nóng ấm: máu.
- Đừng chết, anh xin em! Ông cầu khẩn.
- Để đống đổ nát đó trên người em. Em không muốn anh nhìn thấy khuôn mặt em. Đi cứu con em đi.
Anh tiếp tục đào xới và nghe bà lặp lại.
- Đi tìm xác con em đi. Xin anh làm như em yêu cầu.
E-li-a để đầu bà tựa vào ngực mình và anh khóc.
- Em không biết nó bị kẹt ở đâu. Em xin anh, đừng đi; em muốn anh ở đây với em. Em muốn anh dạy cho em biết yêu. Tim em đã sẵn sàng.
- Trước khi anh đến đây, em đã mong chờ cái chết trong nhiều năm. Cái chết đã nghe lời em và đến đón em.
Bà rên lên một tiếng. E-li-a cắn môi im lặng. Ai đó đụng vào vai anh.
Anh quay lại và thấy cậu bé. Người nó toàn là bụi và tro than, nhưng có vẻ như nó không bị thương.
- Mẹ em đâu? Nó hỏi.
- Mẹ đây con, giọng bà trả lời. Con có bị gì không?
Cậu bé bắt đầu khóc. E-li-a quàng tay ôm em.
- Con khóc đó sao! Giọng bà nói có vẻ yếu hơn. Đừng khóc. Mẹ đã mất rất nhiều thời gian để hiểu rằng cuộc đời có ý nghĩa: mẹ hy vọng đã dạy được con điều đó. Thành phố ra sao rồi?
E-li-a và cậu bé lặng yên, ôm lấy nhau.
- Không sao, E-li-a nói dối. Nhiều binh lính đã chết, nhưng quân As-xi-ri đã rút lui. Họ tìm quan tổng trấn để trả thù cái chết của viên tướng.
Lại im lặng. Và giọng nói lại tiếp tục, yếu ớt hơn.
- Thành phố sao rồi?
E-li-a đoán là bà sẽ chết nhanh thôi.
- Thành phố nguyên vẹn, con em không sao.
- Còn anh?
- Anh còn sống.
Anh biết rằng, những lời nầy sẽ làm cho bà yên tâm và giúp bà chết trong bình an.
- Nói con tôi quỳ gối xuống, bà nói tiếp. Và em muốn anh thề với em, nhân Danh Thiên Chúa của anh.
- Gì cũng được, cái gì cũng được.
- Có lúc, anh nói với em là Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Anh nói rằng các linh hồn không lên trên Ngọn Núi Thứ Năm, và em đã tin như vậy. Nhưng anh chưa nói với em là linh hồn sẽ đi đâu.
Đây là lời thề em muốn anh đồng ý: anh và con em sẽ không khóc thương em, và hai người sẽ chăm sóc cho nhau-cho đến khi nào Chúa cho phép mỗi người đi một đường.. Từ bây giờ, linh hồn em sẽ hòa vào linh hồn của những ai em đã biết trên trái đất nầy: em là thung lũng, là những ngọn núi chung quanh, là thành phố, là những người bước đi trên phố. Em là người bị thương, là người ăn mày, là lính, là thầy tư tế, là thương nhân, là nhà quí tộc. Em là đất trên đó anh bước đi, là giếng nước cho mọi người giải khát. Đừng khóc thương em,vì không có gì phải buồn. Từ nay em là Ak-ba, và thành phố đẹp quá.

Rồi im lặng chết chóc, gió ngừng thổi. E-li-a không còn nghe tiếng kêu la bên ngoài, tiếng lửa lách tách cũng không. Anh chỉ nghe sự im lặng, đặc quánh đến nỗi gần như sờ được.
Lúc đó, E-li-a buông cậu bé ra, xé áo mình , hướng lên trời la lớn.
- Lạy Chúa là Thiên Chúa con! Vì Ngài mà con đã rời bỏ Ít-ra-en, và con chỉ có thể dâng cho Ngài mạng sống của con như các ngôn sứ đã ở lại bên đó. Bạn bè con đã coi con là thằng hèn, và kẻ thù xem con là tên phản bội.
Vì Chúa, con chỉ ăn những thứ mà con quạ mang đến cho con, con đã băng qua sa mạc đi đến Sa-rep-ta mà dân bản địa gọi là Ak-ba. Được bàn tay Ngài đưa dẫn, con đã gặp một người đàn bà, tim con đã biết yêu. Nhưng , không lúc nào con quên nhiệm vụ chính của mình; tất cả những ngày con sống ở đây, con luôn luôn sẵn sàng để ra đi.
Ak-ba xinh đẹp bây giờ là đống đổ nát, và người đàn bà Chúa trao cho con bị chôn vùi dưới đó. Con đã phạm tội gì, Chúa ơi? Có lúc nào con bỏ bê việc Chúa muốn con làm chưa? Nếu Chúa không hài lòng về con, tại sao Chúa không cất con khỏi thế giới nầy? Trái lại, Ngài lại gieo đau thương cho những người đã giúp đỡ con, yêu mến con.
Con không hiểu ý Chúa. Con không thấy Chúa công bằng trong việc Chúa làm. Con không thể chịu đựng được nỗi đau mà Chúa bắt con phải chịu. Xin Ngài đi xa khỏi cuộc đời con, vì con cũng là hoang tàn, lửa, bụi tro.
Giữa biển lửa và hoang tàn, E-li-a thấy ánh sáng. Thiên sứ Chúa hiện ra.
- Ngài đến đây làm gì? E-li-a hỏi. Ngài không thấy là quá muộn sao?
- Tôi đến để nói với anh thêm một lần nữa rằng Thiên Chúa đã nghe lời anh, và điều anh cầu xin sẽ được ban cho. Anh sẽ không nghe thiên thần bản mệnh nói, cũng như ta sẽ không đến gặp anh cho đến khi những ngày thử thách của anh đã qua đi.
E-li-a cầm tay đứa bé và họ cùng bước đi không có mục đích. Gió được khói thổi đi, bây giờ tụ lại trong thành phố làm cho khó thở. “ Có thể đây là một giấc mơ, anh nghĩ. Đây có thể là một cơn ác mộng.
- Ông đã nói dối với mẹ em, cậu bé nói. Thành phố đã bị tàn phá.
- Có quan trọng gì đâu. Vì bà không thấy được, tại sao không để cho bà vui vẻ ra đi?
- Bởi vì mẹ tin ông, và mẹ đã nói mẹ là Ak-ba.
Anh bị xây xát vì những mảnh thủy tinh , gốm rơi vãi trên đường; cái đau chứng minh cho anh thấy đây không phải là mộng, những gì anh thấy chung quanh rất thật. Họ đi đến quảng trường- từ bao lâu rồi?- mọi người tập trung tại đây và anh giúp họ giải quyết xung đột; trời rực vàng vì ánh sáng từ các đám cháy.
- Em không muốn mẹ em là cái em đang thấy. Ông đã dối mẹ em.
Cậu bé đã giữ được lời thề, không một giọt nước mắt.
- Tôi làm gì được? E-li-a tự hỏi. Chân anh rướm máu và anh quyết định chăm sóc vết thương; ít ra, việc nầy cũng cho anh xa rời nỗi tuyệt vọng.
Anh nhìn vết chém của người lính As-xi-ri trên tay; vết thương không sâu như anh tưởng. Anh với thằng bé cùng ngồi xuống ngay nơi mà anh đã bị kẻ thù trói và được một tên phản bội cứu. Người ta không chạy lung tung nữa; họ chầm chậm bước đi trong khói, bụi và đổ nát, như những người chết, như những linh hồn bị trời cao quên lãng, từ nay, họ bị kết án phải vất vưởng muôn đời trên mặt đất.
Một vài người hành động: người ta nghe tiếng kêu cứu của những người đàn bà, lệnh lạc lộn xộn của những binh lính sống sót sau trận tàn sát. Nhưng họ chỉ là một số ít và không hiệu quả gì.
Thầy tư tế ngày kia đã nói rằng thế giới là giấc mơ tập thể của các thần linh. Biết đâu, ông ta có lý? Bây giờ, có thể giúp các thần thức giấc khỏi cơn ác mộng rồi cho họ ngủ lại với một giấc mơ dịu nhẹ hơn? Khi anh hay thấy thị kiến ban đêm, anh thường thức dậy rồi lại ngủ tiếp; tại sao tại họa nầy không xảy ra với những người đã tạo dựng nên thế giới nầy?
Anh vấp vào xác chết. Họ không còn phải lo đóng thuế, lo quân As-xi-ri đóng quân trong thung lũng, các nghi lễ tôn giáo hay sự hiện diện của một ngôn sứ lang thang ngày kia đã nói chuyện với họ.
- Mình không thể ở lại đây. Gia tài bà ta để lại cho mình là cậu bé nầy, và mình sẽ cố gắng cho dù đây là việc cuối cùng mình làm trên đời nầy.
Khó nhọc, anh đứng dậy, cầm tay đứa bé, và bước đi. Nhiều người cướp phá các cửa hàng, tiệm buôn. Lần đầu tiên, E-li-a cố hành động và xin họ đừng làm như thế. 
Nhưng họ xô anh ra và nói:”Chúng tôi chỉ ăn những thứ thừa mà ngài tổng trấn đã ăn một mình. Để chúng tôi yên.
E-li-a không có sức để tranh cãi; anh đưa đứa bé ra ngoài thành và đi vào thung lũng. Thiên sứ không trở lại với gươm lưỡi lửa.

“ Trăng rằm”
Xa vùng khói, bụi, ánh trăng vằng vặc. Một vài giờ trước, khi E-li-a muốn rời thành phố đi về hướng Giê-ru-sa-lem, anh đã tìm ra đường không mấy khó khăn; quân As-xi-ri cũng làm như thế.
Cậu bé vấp vào một xác chết và la lên. Đó là thi thể của thầy tư tế; tay chân ông bị chặt rời, nhưng ông còn sống và ngước mắt nhìn lên Ngọn Núi Thứ Năm. 
Anh thấy không, các thần Phê-ni-xi đã thắng trận chiến trên trời”, ông ta nói khó nhọc nhưng với một giọng điềm tỉnh. Máu từ trong miệng ông chảy ra.
- Để tôi chấm dứt sự đau đớn cho ông” E-li-a nói.
- Đau đớn không là gì sau niềm vui đã hoàn thành nhiệm vụ.
- Nhiệm vụ của anh là tàn phá một thành phố của những người lương thiện sao?
- Một thành phố không chết; chỉ dân thành chết mà thôi và cùng với đó là những ý tưởng họ mang trong mình. Ngày kia, những người khác sẽ đến Ak-ba, họ sẽ uống nước của nó, và viên đá của người sáng lập sẽ được mài bóng và gìn giữ bởi những thầy tư tế mới. Đi đi, đau đớn của tôi sẽ qua nhanh thôi, nhưng nỗi tuyệt vọng của anh sẽ theo anh đến hết cuộc đời.”
Cái thân xác tan nát thở cách khó nhọc, E-li-a để ông ở lại đó. Lúc đó, một nhóm người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con chạy đến bao quanh ông. 
- Chính ông, họ la lên,ông đã hạ nhục đất nước ông lại còn mang tai họa đến cho thành phố chúng tôi nữa!
- Xin các thần chứng giám! Cho họ biết ai là thủ phạm!
Những người đàn ông xô đẩy anh và lay vai anh. Cậu bé lấy tay che mặt rồi biến mất. Người ta đánh lên đầu, lên ngực,vào lưng E-li-a, nhưng anh chỉ nghĩ đến thằng bé; anh không giữ nó lại với mình được.
Vụ hành hung kéo dài không lâu; có lẽ vì họ đã mệt mỏi. E-li-a ngã xuống đất.
- Biến khỏi nơi đây! Ai đó lên tiếng. Mày đã đáp trả tình yêu bằng hận thù!”
Nhóm người đi đã xa. Anh không còn sức để đứng dậy. Khi anh đã hết xấu hổ, anh không còn là chính mình. Anh không muốn chết cũng không muốn sống. Anh không muốn gì hết: anh không còn tình yêu, không còn hận thù, không còn đức tin.
Một bàn tay sờ vào mặt làm anh thức dậy. Trời vẫn còn tối, nhưng trăng đã lặn.
- Em đã hứa với mẹ là em sẽ chăm sóc ông, cậu bé nói. Nhưng em không biết làm thế nào.
- Trở về thành phố đi. Người ta sẽ đón tiếp em.
- Ông đang bị thương. Em phải chăm sóc cái tay cho ông. Có lẽ một thiên sứ sẽ hiện ra và dạy cho em phải làm gì.
- Em ngu lắm, em không biết gì về chuyện đang xảy ra! E-li-a la lên. Các thiên sứ sẽ không quay lại đâu, bởi vì chúng ta là người trần và con người thì yếu đuối trước đau khổ. Khi xảy ra thảm kịch, người trần phải tự xoay xở với điều kiện của riêng mình.
Anh thở sâu và cố gắng trấn an thằng bé; tranh cãi thì ích gì.
- Làm sao em đến đây được?
- Em có đi đâu.
- Như thế, em đã thấy nỗi sỉ nhục của tôi rồi nhé. Em thấy là tôi không làm được gì ở Ak-ba nữa.
- Ông đã nói với em là tất cả các trận chiến đều nhằm phục vụ một cái gì đó, ngay cả những trận mà chúng ta đại bại.”
Anh nhớ lại lần đi ra giếng, buổi sáng hôm trước. Nhưng với anh, hình như đã nhiều năm trôi qua rồi, và anh muốn đáp lại là những lời nói hay ho chẳng ích lợi gì cả khi ta phải đối mặt với khổ đau; nhưng anh không muốn làm cậu bé sợ vì những lời đó.
- Làm sao em thoát được khỏi trận hỏa hoạn?
Cậu bé cúi đầu.
- Em không ngủ. Em đã quyết định thức cả đêm để xem ông có vào phòng mẹ em không. Em đã thấy khi những người lính đầu tiên tiến vào.
E-li-a đứng dậy và tiếp tục đi. Anh tìm kiếm tảng đá, trước Ngọn Núi Thứ Năm. Nơi mà một buổi chiều, anh đã ngồi ngắm hoàng hôn với người đàn bà.
Có lẽ mình không nên đến đó, anh nghĩ. Mình sẽ còn tuyệt vọng hơn. Nhưng một lực vô hình đã hướng anh đi đến đó, anh khóc cay đắng; cũng như thành phố Ak-ba, nơi đây cũng được đánh dấu bằng một phiến đá – nhưng anh là người duy nhất hiểu ý nghĩa của nó; nó sẽ không được các cư dân mới tôn vinh, mài nhẵn bởi những cặp tình nhân vừa mới khám phá ra ý nghĩa của tình yêu.
Anh ôm thằng bé và ngủ say.
- Em đói, khát”, đứa bé nói với E-li-a khi vừa thức dậy.
Chúng ta sẽ đến nhà các người chăn nuôi sống gần đây. Họ không bị ảnh hưởng gì vì họ không ở Ak-ba.”
Chúng ta phải xây dựng lại thành phố. Mẹ em đã nói mẹ là Ak-ba.”
- Cái gì? Không còn lâu đài, chợ búa, tường thành. Những người lương thiện đã biến thành kẻ cướp, quân nhân trẻ đã bị tàn sát. Thiên sứ sẽ không trở lại- nhưng đó là mối lo nhỏ nhặt.
- Ông có thấy là sự tàn phá, sự đau đớn, những người chết hôm qua có một ý nghĩa gì đó không? Ông nghĩ là phải tiêu diệt hàng ngàn mạng sống để dạy cho ai đó cách nhìn đời của ông sao?
Cậu bé thảng thốt nhìn anh.
- Quên điều tôi vừa mới nói đi, E-li-a nói. Nào, đi tìm người chăn chiên.
- Và chúng ta cùng đi xây dựng lại thành phố, thằng bé quả quyết.
E-li-a không trả lời. Anh biết là anh không còn có thể áp đặt uy quyền lên dân chúng vì họ kết án anh là người mang lại tang thương. Quan tổng trấn đã chạy trốn, quan lãnh binh tử trận. Tyr và Si-don có lẽ cũng sẽ sớm rơi vào tay ngoại bang. Người đàn bà có lẽ đúng: các thần thay đổi luôn- và lần nầy chính Chúa cũng đã bỏ đi.
- Khi nào chúng ta quay về đó? Cậu bé lại hỏi.
E-li-a vịn vai em và lắc
- Nhìn đàng sau em đi! Em không phải là một thiên thần mù, nhưng là một cậu bé muốn giám sát những việc mẹ em làm. Em thấy gì? Em đã thấy những cột khói bay lên trời? Em biết điều đó có nghĩa gì không?
- Ông làm em đau!Em muốn rời khỏi nơi đây, em muốn đi.
E-li-a ngừng lại, ngạc nhiên vì thái độ của chính mình; chưa bao giờ anh làm như vậy. Em bé lùi lại và bắt đầu chạy về hướng thành phố. Anh chạy theo, bắt được nó và quì trước mặt nó.
- Tha lỗi cho tôi. Tôi không biết mình đã làm gì.
Cậu bé khóc, nhưng không có một giọt nước mắt. Nó ngồi gần anh, đợi anh bình tâm lại.
- Đừng đi, anh nài nỉ. Trước khi mẹ em chết, tôi đã hứa sẽ ở với em cho đến khi nào em có thể tự chọn con đường cho mình. 
- Ông cũng đã hứa là thành phố còn nguyên vẹn. Và mẹ em đã nói…
- Không cần nhắc lại. Tôi xấu hổ vì sai lầm của chính mình. Để tôi bình tâm lại. Xin lỗi, tôi không muốn làm em bị tổn thương.
Cậu bé ôm anh vào lòng. Nhưng không có một giọt nước mắt nào.
Họ đến được ngôi nhà ở giữa thung lũng; một người đàn bà đứng gần cửa ra vào, hai đứa nhỏ đang chơi bên cạnh. Đàn gia súc đang ở trong ràn- có nghĩa là người chồng không lên núi hôm đó.
Người đàn bà sợ hãi nhìn người đàn ông và thằng bé đang tiến về phía mình. Tự nhiên, bà muốn xua đuổi họ đi, nhưng truyền thống- và các vị thần buộc bà phải tuân theo luật muôn đời: cho khách trú ngụ. Nếu bà không tiếp họ, một bất hạnh tương tự sẽ xảy ra sau nầy với các con bà.
- Tôi không có tiền, bà nói. Nhưng tôi có thể cho các người nước uống và một chút thức ăn.”
Họ ngồi xuống trên một khoảng sân có mái rơm che, và bà mang ra trái cây khô, một bình nước. Họ im lặng ăn, tìm lại một chút, kể từ đêm hôm trước, những động tác quen thuộc. Mấy đứa bé, sợ sệt vì vẻ bề ngoài của những người khách, đã trốn vào trong nhà.
Ăn xong, E-li-a hỏi về người chồng.
- Anh ấy sắp về rồi, bà trả lời. Chúng tôi đã nghe tiếng động lớn, và sáng nay, có người đến nói với chúng tôi là Ak-ba đã bị tàn phá. Anh ấy đi coi chuyện gì đã xảy ra.”
Mấy đứa trẻ gọi và bà đi vào trong. 
Thuyết phục thằng bé là vô ích, E-li-a nghĩ bụng. Chừng nào mình chưa làm cho nó điều nó yêu cầu, nó sẽ không để cho mình yên. Mình phải chứng minh cho nó là không thể được.
Thức ăn và nước uống đã làm điều thần kỳ. Họ lại cảm thấy mình là một phần của nhân loại. Tư tưởng anh vụt qua nhanh chóng, cần tìm kiếm những giải pháp hơn là những câu trả lời.
Một lúc sau, người chồng trở về. Lo âu cho an nguy của gia đình, anh hơi sợ khi thấy người đàn ông và thằng bé. Nhưng anh nhanh chóng hiểu ra.
- Chắc các ông là người tỵ nạn từ Ak-ba, ông nói. Tôi mới từ đó về.
- Chuyện gì xảy ra ở đó? Cậu bé hỏi.
- Thành phố bị tàn phá, quan tổng trấn đã chạy trốn. Thần linh đã làm đảo lộn thế giới.
- Chúng tôi đã mất tất cả, E-li-a giải thích. Chúng tôi mong được ông bà đón tiếp.
- Vợ tôi đã đón tiếp các ông, cho các ông ăn. Bây giờ ,các ông phải ra đi và đối diện với điều không thể tránh được.
- Tôi không biết phải làm sao với đứa bé nầy. Tôi cần giúp đỡ.
- Nhưng ông biết. Nó lớn rồi, nó có vẻ thông minh và tràn đầy sinh lực. Còn ông, ông có kinh nghiệm của người đã từng nếm trải nhiều vinh quang và thất bại trong đời. Đó là một sự kết hợp hoàn hảo vì nó có thể cho ông tìm thấy sự khôn ngoan.
Nhìn vết thương trên tay E-li-a, người đàn ông xác định là không trầm trọng; ông sẽ tìm trong nhà một vài loại cây cỏ và một miếng vải. Cậu bé giúp ông giữ miếng thuốc đúng chỗ. Khi người chăn chiên nói là ông có thể tự làm được, cậu bé nói là mẹ đã dặn em phải chăm sóc người đàn ông nầy.
Người chăn chiên cười.
- Con anh là một người biết giữ lời.
- Em không phải là con ông ấy. Và ông ấy cũng là một người biết giữ lời. Ông ta sắp xây dựng lại thành phố vì ông phải làm cho mẹ em trở về, đúng như ông ấy đã làm với em.”
E-li-a hiểu ra cái gì đang làm cậu bé bận tâm, nhưng trước khi anh kịp nói lời nào thì người đàn ông đã gọi vợ rằng đã đến lúc ông phải đi.” Tốt nhất là xây dựng lại cuộc sống, không trì hoãn, ông tuyên bố. Việc đó đòi hỏi nhiều thời gian và mọi sự sẽ trở lại như trước.


Không có gì sẽ lại như trước.
Ông có vẻ là một người khôn ngoan, và ông có thể hiểu những điều tôi không hiểu. Nhưng thiên nhiên đã dạy tôi một bài học mà tôi không bao giờ quên: một người sống lệ thuộc vào thời gian, thời vụ, như một người chăn chiên, có thể vượt qua những biến cố không thể tránh được. Anh ta chăm sóc đàn chiên, đối xử với từng con như thể nó là con duy nhất, tìm cách giúp các con mẹ và con con, không đi quá xa những nơi súc vật có nước uống. Tuy nhiên, đôi lúc, một con chiên mà anh đã bỏ ra nhiều công chăm sóc phải chết vì tai nạn, do rắn cắn, do thú hoang cắn, hay té xuống vực. Điều không tránh khỏi xảy ra luôn.
E-li-a nhìn về hướng Ak-ba và nhớ lại cuộc nói chuyện với thiên sứ. Điều không tránh khỏi xảy ra luôn. 
- Cần có kỷ luật và kiên nhẫn để vượt qua. Người chăn chiên nói thêm.
Và hy vọng. Khi không còn hy vọng, không nên hao phí năng lực để làm điều không thể.
Vấn đề không phải là hy vọng vào tương lai. Phải tái tạo quá khứ.”
Người chăn chiên không vội, tim anh tràn ngập lòng trắc ẩn với những người chạy nạn nầy. Bởi vì anh và gia đình đã tránh được thảm họa, anh sẽ không mất gì khi giúp đỡ họ- và làm vui lòng các vị thần. Ngoài ra, anh còn nghe nói đến vị ngôn sứ người Ít-ra-en, người đã leo lên tận Ngọn Núi Thứ Năm mà không bị lửa từ trời thiêu đốt; tất cả đều chứng minh rằng người đó đang trước mặt ông. 
- Các ông có thể ở thêm một ngày nữa, nếu các ông muốn.
- Tôi không hiểu anh nói gì, E-li-a nói. Về chuyện tái tạo lại quá khứ đó.
- Tôi thường thấy những người đi qua đây để đến Tyr và Si-don. Có người phàn nàn vì không thành công ở Ak-ba, và họ đi tìm vận may mới. Ngày kia, những người đó trở về, họ đã không tìm được điều họ tìm kiếm bởi vì họ mang đi, ngoài hành trang, còn cả sức nặng của thất bại trong quá khứ. Một người nào đó quay về với một công việc trong chính phủ, hay niềm vui đã cho con cái được hưởng một nền giáo dục tốt- nhưng không có gì hơn, bởi vì quá khứ ở Ak-ba đã làm cho họ sợ sệt, và họ không có đủ nghị lực để vượt qua thử thách.
Rồi đã đi qua trước cửa nhà tôi những người tràn đầy đam mê. Họ đã tận dụng từng giây phút họ ở tại Ak-ba và, bằng nhiều cố gắng,họ kiếm được tiền bạc đủ để tiếp tục cuộc hành trình mà họ muốn thực hiện. Với họ, cuộc đời là một chiến thắng thường xuyên, và sẽ luôn như thế. Họ cũng trở về đây, nhưng với những câu chuyện thần kỳ. Họ đã đạt được những gì họ mong muốn vì họ không bị giam hãm bởi thất bại trong quá khứ.
Câu chuyện của người chăn chiên làm cho E-li-a cảm động.
- Xây dựng lại một cuộc đời không khó, ngay cả việc vực dậy Ak-ba từ đống đổ nát không phải là không thể, người chăn chiên nói tiếp. Làm việc đó, cần ý thức là chúng ta cũng có sức mạnh như trước kia, và chúng ta sử dụng nó cho công việc của chúng ta.
Người đàn ông nhìn vào mắt anh.
- Nếu anh có một quá khứ mà anh không hài lòng, quên nó đi. Tưởng tượng ra một câu chuyện mới cho đời mình và tin vào đó. Chỉ chú tâm tới những lúc ta thành công- và sức mạnh nầy sẽ giúp anh đạt được những gì anh mong muốn.
Một thời, mình đã muốn làm thợ mộc, rồi mình muốn làm ngôn sứ được sai đến vì phần rỗi Ít-ra-en, E-li-a nghĩ thầm. Các thiên sứ xuống từ trời, và Thiên Chúa nói với mình. Rồi mình nhận ra Thiên Chúa không công bằng và lý lẽ của Ngài khi nào cũng vượt quá điều mình hiểu.”
Người chăn chiên gọi vợ bảo là ông không đi nữa- ông ta đã đến Ak-ba và anh ta không muốn quay lại đó.
- Cảm ơn đã đón tiếp chúng tôi.
- Một đêm có đáng gì đâu “
Cậu bé nói chen vào:
- Chúng tôi muốn về Ak-ba.
- Đợi đến sáng mai. Cư dân thành phố đang cướp phá nó, không có chỗ nào để ngủ cả.
Cậu bé nhìn xuống đất, cắn môi và một lần nữa cố nén không khóc. Người chăn chiên dẫn họ vào nhà, trấn an vợ con và ngồi cả ngày nói chuyện để giải sầu cho hai người.
Ngày hôm sau, họ dậy sớm, ăn cơm rồi đi ra cửa.
- Chúc anh trường thọ và bầy gia súc đông đúc, E-li-a chúc. Tôi đã được ăn no và đã được học hỏi những gì chưa biết. Cầu Chúa đừng bao giờ quên những gì anh đã làm cho chúng tôi và con cái anh chị sẽ không bao giờ là người lạ nơi đất khách quê người.
- Tôi không biết anh thờ chúa nào; có nhiều thần thánh lắm, các thần cư ngụ trên Ngọn Núi Thứ Năm, người chăn chiên nói. Rồi bỗng nhiên đổi giọng, anh nói:”Anh hãy ghi nhớ những điều tốt đẹp anh đã làm. Chúng sẽ cho anh can đảm.
- Tôi mới làm được rất ít và tôi cũng không có tài năng gì.
- Như vậy thì đã đến lúc phải làm nhiều hơn.
- Tôi đã có thể giúp tránh được cuộc xâm lăng.
Người chăn chiên cười:
- Ngay cả khi anh là tổng trấn Ak-ba, anh cũng không ngăn được điều không thể tránh.
- Quan tổng trấn đã có thể tấn công quân As-xi-ri khi chúng vừa mới đến trong thung lũng. Hay là điều đình hòa bình thì chiến tranh đã không xảy ra.
- Tất cả những việc đáng ra đã xảy ra, đã không xảy ra, gió thổi qua và không còn dấu vết gì, người chăn chiên nói. Cuộc đời được tạo thành từ những việc làm của chúng ta. Và có những điều mà thần linh buộc ta phải trải qua. Không cần biết sự an bài của các ngài như thế nào, và làm hết sức mình để trốn tránh cũng không ích lợi gì cả.
- Tại sao?
- Hãy hỏi vị ngôn sứ Ít-ra-en đang sống ở Ak-ba. Hình như cái gì ông ta cũng biết.
Người đàn ông đi ra phía hàng rào:”Tôi phải đưa đàn chiên ra đồng cỏ đây. Hôm qua, chúng đã không được ra.
Ông từ biệt hai người và đi xa với đàn chiên.
Người đàn ông và cậu bé tiến vào thung lũng.
- Ông đi chậm quá, thằng bé nói. Ông sợ những gì sắp xảy ra cho ông.
- Tôi chỉ sợ bản thân mình thôi, E-li-a đáp. Người ta không làm gì được tôi, nhưng trái tim tôi không còn nữa.
- Thiên Chúa đã cho tôi từ cõi chết trở về, Ngài có thể cho mẹ tôi sống lại nếu ông cũng làm đúng một cách như thế với thành phố.
- Quên Chúa đó đi. Ngài ở xa,và Ngài không làm những phép lạ mà chúng ta trông đợi Ngài làm.
Người chăn chiên có lý. Từ nay, phải xây dựng lại chính quá khứ của mình, quên đi rằng một ngày nào đó, người ta sẽ nói rằng vị ngôn sứ nhận lãnh trách nhiệm giải phóng Ít-ra-en lại thất bại trong việc cứu vớt chỉ một thành phố.
Ý nghĩ nầy làm anh vui mừng kỳ lạ. Lần đầu tiên trong đời, anh cảm thấy tự do, sẵn sàng làm bất cứ cái gì anh muốn vào bất cứ lúc nào anh muốn. Anh sẽ không nghe các thiên sứ nói, nhưng trái lại, anh sẽ tự do quay về Ít-ra-en, lại làm việc trong xưởng mộc, đi du lịch đến Hi-lạp để học sự khôn ngoan của những nhà thông thái hay là đi với các nhà hải hành Phê-ni-xi đến những bến bờ xa lạ.
Nhưng trước hết, anh phải trả thù. Anh đã hiến dâng những năm tháng đẹp nhất đời mình để phụng sư một vị Thiên Chúa điếc, luôn ra lệnh cho anh nhưng lại làm mọi sự theo ý Ngài. Anh đã học cách chấp nhận những quyết định của Ngài và tôn trọng những ý định của Ngài. Nhưng lòng trung thành của anh được đền đáp bằng sự bỏ rơi, sự tận tụy của anh không được nhìn nhận, những nỗ lực của anh để hoàn thành Ý muốn tối thượng của Ngài đã kết thúc với cái chết của người đàn bà duy nhất mà anh yêu trong đời.
Ngài có tất cả sức mạnh của thế gian và các vì sao, E-lia nói bằng tiếng mẹ đẻ để thằng bé không hiểu được, Ngài có thể hủy hoại một thành phố, một đất nước như chúng con giết một con sâu, cái kiến.Vậy thì, xin cho lửa từ trời xuống chấm dứt đời con ngay lập tức, nếu không, con sẽ đi ngược lại đường lối của Ngài.
Ak-ba xuất hiện đàng xa. Anh nắm tay thằng bé và siết thật chặt.
- Từ đây cho đến khi bước qua cổng thành, tôi sẽ nhắm mắt mà đi; em phải dẫn tôi đi, anh nói với cậu bé. Nếu tôi chết dọc đường, hãy làm điều mà em yêu cầu tôi làm: xây dựng lại Ak-ba, cho dù để làm được việc đó, trước hết em phải lớn lên, học cắt gỗ và đẽo đá.
Cậu bé vẫn im lặng. E-li-a nhắm mắt và để cho cậu bé dẫn đi. Anh nghe tiếng gió và tiếng bước chân anh trên cát.
Anh nhớ đến Môi-sê. Sau khi đã giải thoát và đưa dân Chúa chọn vào sa mạc, vượt qua những khó khăn lớn lao, Thiên Chúa đã không cho ông vào đất Ca-na-an. Lúc đó, Môi-sê nói:”Xin cho con qua bên kia, để con có thể thấy xứ sở tốt đẹp bên kia sông Gio-dan.”
Nhưng Chúa đã nổi giận vì lời cầu xin của ông. Và phán:” Đủ rồi. Đừng nói với ta điều đó. Ngước mắt lên nhìn về phía Tây và phía Bắc, phía Nam và phía Đông; căng mắt ra mà nhìn vì ngươi sẽ không qua được sông Gio-dan.”
Chúa đã thưởng cho Môi-sê sau nhiệm vụ lâu dài và khổ cực như thế đó; ông không được phép đặt chân lên Đất hứa. Ông ta sẽ ra sao nếu ông ta bất tuân?
Tâm trí E-li-a lại hướng lên trời.
Lạy Chúa, cuộc chiến nầy không phải là trận đánh giữa quân As-xi-ri và Phê-ni-xi, nhưng là trận chiến giữa Chúa và con. Chúa đã không báo trước cho con về trận chiến kỳ lạ nầy và- như mọi khi- Chúa đã thắng và hoàn thành ý Ngài. Chúa đã lấy đi người đàn bà con yêu, thành phố đã đón tiếp con khi con phải sống xa quê hương.
Gió thổi mạnh bên tai ông. E-li-a sợ, nhưng nói tiếp:
- Con không thể làm cho người đàn bà sống lại, nhưng con có thể thay đổi công cuộc tàn phá của Ngài. Môi-sê đã tuân theo ý Chúa và ông đã không qua sông. Còn con, con sẽ tiếp tục: giết con ngay đi, vì, nếu Ngài để cho con đến được cửa thành, con sẽ xây dựng lại những gì Ngài đã muốn phá hủy. Và con sẽ làm trái ý Ngài.”
Anh thôi nói. Tâm hồn anh trống rỗng và anh chờ đợi cái chết. Trong thời gian rất lâu, anh chỉ chăm chú đến tiếng bước chân anh trên cát; anh không muốn nghe tiếng nói của các thiên sứ, hay là lời đe dọa từ trời cao. Trái tim anh tự do và anh không sợ những gì sắp xảy đến. Tuy nhiên, tận sâu thẳm tâm hồn, có cái gì đó dằn vặt anh-như thể anh đã quên một cái gì quan trọng.
Một lúc sau, cậu bé dừng bước và lay tay anh.
- Đến rồi, nó nói.
Anh mở mắt. Lửa từ trời đã không xuống thiêu đốt anh và tường thành bị tàn phá của Ak-ba chung quanh anh. 
Anh nhìn cậu bé nắm tay anh như thể anh sợ nó sẽ trốn thoát. Anh có yêu nó không? Không biết. Nhưng những suy nghĩ nầy cứ để sau hãy tính.; bây giờ anh có một nghĩa vụ phải làm- nhiệm vụ đầu tiên từ nhiều năm nay mà không do Thiên Chúa áp đặt.
Từ nơi họ đứng, họ có thể ngửi thấy mùi cháy. Những con kền kền bay lượn trên trời, đợi lúc thuận tiền nhào xuống ăn xác lính tử trận đang thối rửa trên mặt đất. E-li-a rút một thanh kiếm từ thắt lưng của một người lính chết trận. Trong cơn hỗn độn đêm qua, quân As-xi-ri quên lấy vũ khí của những người chết ở ngoài thành. 
- Ông lấy thanh kiếm nầy làm gì? Cậu bé hỏi.
- Để tự vệ.
- Nhưng quân As-xi-ri đi rồi.
- Dù sao, có một cái trên người vẫn tốt hơn. Cần sẵn sàng.
Giọng anh run run. Không thể biết được cái gì chờ đợi họ khi họ bước qua cổng thành đã bị tàn phá hơn một nửa, nhưng anh sẵn sàng giết bất cứ ai muốn làm nhục anh.
- Tôi cũng đã bị tàn phá như thành nầy, anh nói với cậu bé. Nhưng cũng như thành nầy, tôi chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Cậu bé mỉm cười.
- Ông nói như ngày xưa.
- Đừng lợi dụng chữ nghĩa. Trước đây, mục tiêu của tôi là đánh đuổi Je-za-ben khỏi ngai vàng và trả Ít-ra-en lại cho Chúa, nhưng bây giờ, vì Ngài đã quên chúng ta, chúng ta cũng phải quên Ngài. Nhiệm vụ của tôi bây giờ là hoàn tất điều em yêu cầu.”
Cậu bé nhìn anh, nghi ngờ:
- Không có Chúa, mẹ em sẽ không thể từ cõi chết sống lại được.
E-li-a xoa đầu em.
- Chỉ có thân xác mẹ em hư thối thôi. Bà đang ở giữa chúng ta và như bà đã nói, bà là Ak-ba. Chúng ta phải giúp bà lấy lại vẻ đẹp khi xưa.

Thành phố gần như hoang vắng. Những người già, đàn bà và trẻ con lang thang trên phố-lặp lại thảm cảnh mà anh đã thấy đêm thành phố bị tấn công. Hình như họ không biết làm gì, không biết quyết định ra sao.
Mỗi khi anh gặp một người, cậu bé để ý là E-li-a siết chặt thanh gươm. Nhưng không ai quan tâm đến họ: đa số họ biết vị ngôn sứ Ít-ra-en, một vài người gật đầu chào anh, nhưng không ai nói với anh lời nào- kể cả nguyền rủa.
Họ mất hết, ngay cả sự tức giận, anh nghĩ lúc đang nhìn lên Ngọn Núi Thứ Năm, đỉnh núi phủ sương mù. Lúc đó, anh nhớ lại lời Chúa:

“Ta sẽ ném xác các người lên trên thân xác các vị thần của các ngươi; ta mệt mỏi vì các ngươi. Xứ sở các ngươi sẽ bị tàn phá và thành phố hoang tàn. Và những ai trong số các ngươi còn sót lại, ta sẽ gieo vào tim nó sự lo âu đến nỗi họ sợ cả tiếng lá lay động. Và họ sẽ ngã quỵ mà không cần ai đánh họ.”
- Lạy Chúa, đó là điều Ngài đã làm: Ngài đã giữ lời, và những người sống như đã chết tiếp tục lang thang trên đất. Và Ak-ba là nơi được chọn cho họ cư ngụ.”
Cả hai đến quảng trường trung tâm, ngồi trên đống đổ nát và nhìn chung quanh. Sự tàn phá hình như khắc nghiệt và không thể hàn gắn như họ đã tưởng; đa số nhà cửa sụp mái, dơ bẩn và côn trùng ngự trị khắp nơi.
- Phải gom xác người chết, anh nói. Hay là thành phố sẽ bị dịch hạch.
Cậu bé vẫn nhìn xuống đất.
- Ngẩng đầu lên, E-li-a nói. Chúng ta phải làm việc nhiều để mẹ em vui lòng.”
Nhưng cậu bé không vâng lời; nó bắt đàu hiểu rằng, đâu đó trong đống đổ nát nầy, có thân xác của người đã sinh thành ra nó, và thân xác đó cũng trong tình trạng tương tự như những thây ma đang vương vãi chung quanh em.
E-li-a không bắt buộc nó. Anh đứng dậy, vác một xác chết trên vai và mang ra đặt giữa quảng trường. Anh không còn nhớ lời Chúa truyền về việc chôn cất kẻ chết.; tất cả những gì anh phải làm là ngăn không cho dịch bệnh bùng phát, giải pháp duy nhất là thiêu.
Anh làm như vậy cả buổi sáng. Cậu bé không rời chỗ ngồi cũng không nhìn lên, nhưng nó giữ lời hứa với mẹ: không một giọt nước mắt nào rơi trên đất Ak-ba.
Một người đàn bà dừng lại và nhìn E-li-a làm việc.
- Ai chăm sóc cho người sống, sẽ thu gom xác chết, bà nói”
- Đàn ông Ak-ba đâu hết rồi? E-li-a hỏi.
- Họ ra đi rồi và chút gì còn lại họ cũng mang theo. Không còn gì đáng giá để ở lại đây. Những người không đi được là các người già, góa phụ và trẻ mồ côi.
- Nhưng họ đã ở đây hàng đời nay! Không thể ra đi dễ dàng như thế được.
- Ông hãy nói cái đó với một người đã mất hết tất cả.
- Hãy giúp tôi, E-li-a nói, vai đang mang một thây người đặt vào đống xác. Chúng ta sẽ thiêu chúng đi để cho thần ôn dịch không đến viếng thăm chúng ta được. Thần rất sợ khói của thịt cháy.
- Cầu cho thần ôn dịch đến, người đàn bà đáp. Và mang tất cả chúng ta đi, càng sớm càng tốt.
E-li-a tiếp tục làm. Người đàn bà ngồi bên cạnh cậu bé và nhìn anh làm. Một lúc sau, bà đến gần ông - Tại sao ông muốn cứu thành phố bị nguyền rủa?
- Nếu tôi ngừng lại để suy nghĩ, tôi sẽ không thể làm được như tôi muốn, anh trả lời.
Người chăn chiên già có lý; quên quá khứ bất định đi và xây dựng một lịch sử mới là cách duy nhất. Ông ngôn sứ ngày xưa đã chết theo người đàn bà trong đám cháy; bây giờ, anh là người không đức tin vào Chúa, cưu mang biết bao nhiêu nghi ngờ. Nhưng anh còn sống, ngay cả sau khi chống lại lời chúc dữ của Chúa. Nếu anh muốn đi trọn con đường của mình, anh phải tự nghe mình.
Người đàn bà chọn một cái thây nhẹ và cầm chân kéo đên cái đống E-li-a đã gom. 
- Không phải vì sợ thần ôn dịch, bà nói. Cũng không phải vì Ak-ba ,bởi vì người As-xi-ri sẽ quay lại bây giờ. Đây chỉ là vì cậu bé ngồi kia kìa; nó phải hiểu rằng nó còn sống.
- Cảm ơn, E-li-a nói.
- Đừng cảm ơn tôi. Đâu đó trong đống đổ nát nầy, chúng ta sẽ tìm thấy xác con tôi. Nó cũng cùng tuổi với thằng bé nầy.
Bà đưa tay ôm mặt và khóc lớn. E-li-a tế nhị cầm tay bà.
- Đau khổ mà bà và tôi đang chịu sẽ không bao giờ quên được, nhưng việc ta làm sẽ giúp ta chịu đựng được.. Đau khổ không có sức làm tổn thương một thân xác mệt mỏi.
Họ dành cả ngày để làm công việc rùng rợn nầy, nhặt và chất đống các xác chết; phần lớn là những thanh niên mà quân As-xi-ri xem như là lính của Ak-ba. Có lúc, anh nhận ra xác một vài người bạn và anh khóc, nhưng không gián đoạn công việc.
Cuối buổi chiều, họ đuối sức. Tuy nhiên, công việc cần làm còn nhiều; và không cư dân nào đến giúp họ.
Cả hai người đến gần đứa bé. Lần đầu tiên, nó ngẩng đầu lên. 
- Em đói, nó nói.
- Tôi sẽ đi tìm cái gì ăn, người đàn bà nói. Có nhiều đồ ăn dấu trong nhà; dân Ak-ba chuẩn bị cho một cuộc bao vây dài ngày mà.
- Hãy mang đồ ăn đến cho bà và tôi, vì chúng ta lo lắng cho thành phố bằng mồ hôi trán chúng ta, E-li-a cương quyết. Nếu cậu bé nầy muốn ăn, em phải tự liệu.”
Người đàn bà hiểu; bà cũng sẽ làm như vậy với con bà. Bà đi về phía trước kia là nhà của bà; những tên cướp cạn đã lục tung gần như tất cả để tìm những vật dụng đáng giá, bộ sưu tập đồ thủy tinh, được chế tạo bởi một bậc thầy của Ak-ba bể tan tành nằm rải rác trên nền nhà. Nhưng bà tìm được hoa quả khô, bột mà bà đã tích trử.
Bà trở lại quảng trường và cùng ăn với E-li-a. Cậu bé không nói gì. 
Một ông già tiến đến:
- Tôi đã thấy hai người gom xác chết cả ngày. Mất thì giờ. Các người không biết là quân As-xi-ri sắp trở lại sau khi đã chiếm Tyr và Si-don không? Cầu cho thần ôn dịch đến đây và tiêu diệt cả chúng ta và chúng nó.
- Chúng tôi không làm điều đó vì chúng, cũng không phải cho chúng ta, E-li-a nói. Bà ta làm là để dạy cho thằng bé rằng có một tương lai. Còn tôi, tôi làm để chứng minh là một quá khứ đã không còn.
- Như vậy đó, ngôn sứ không còn là mối đe dọa cho công chúa xứ Tyr: ngạc nhiên chưa! Je-za-ben sẽ cai trị Ít-ra-en cho đến cuối đời, và chúng ta sẽ có một nơi để trốn tránh nếu quân As-xi-ri không bao dung với người chiến bại.
E-li-a lặng thinh. Cái tên mà ngày xưa làm cho anh thù ghét, bây giờ vang lên một cách xa lạ.
- Bằng mọi cách, Ak-ba sẽ được xây dựng lại, ông già bảo. Chính các thần đã chọn nơi nầy để chúng ta xây dựng thành phố. Các ngài sẽ không bỏ rơi đâu; nhưng chúng ta có thể để việc nầy cho thế hệ mai sau. Chúng ta có thể. Nhưng chúng ta không làm.”
E-li-a quay lưng với ông già, chấm dứt câu chuyện.
Cả ba ngủ ở ngoài trời. Người đàn bà ôm cậu bé trong tay và để ý thấy cái đói làm bụng em sôi. Bà muốn cho em chút gì ăn; nhưng bà thay đổi ý kiến: sự mệt nhọc thân xác làm dịu đi nỗi đau, và cậu bé nầy, có vẻ đau khổ nhiều, phải làm một việc gì đó. Cái đói có lẽ sẽ thuyết phục em làm việc.
Ngày hôm sau, E-li-a và người đàn bà lại tiếp tục công việc. Ông già hôm qua quay lại gặp họ.
- Tôi không có việc gì làm, tôi có thể giúp các người, ông nói. Nhưng tôi yếu quá, không khiêng nổi cái xác.
- Vậy thì đi gom củi và gạch. Ông sẽ đi vứt tro.
Ông già bắt tay vào việc.
Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, E-li-a ngồi bệt xuống đất, mệt mỏi. Anh biết là thiên thần bản mệnh của anh đang ở bên cạnh, nhưng anh không thể nghe tiếng nói.” Để làm gì? Ngài đã không thể giúp tôi khi tôi cần ngài, bây giờ, tôi không muốn nghe lời khuyên của ngài nữa.; tất cả những gì tôi phải làm, là làm cho thành phố nầy trở lại gọn gàng, chứng minh với Thiên Chúa là tôi có thể đương đầu với Ngài, rồi tôi sẽ đi đến nơi đâu tôi muốn.”
Giê-ru-sa-lem không xa, bảy ngày đi bộ thôi, đường đi không khó, nhưng ở đó anh bị săn lùng như một tên phản bội. Có lẽ tốt hơn là đi Đa-mát, tìm một chân thư ký trong một thành phố Hy-lạp.
Anh cảm thấy có người đụng vào mình. Anh quay lại và thấy cậu bé, tay cầm một cái bình nhỏ.
- Em đã tìm thấy cái nầy trong một nhà.’ Cậu nói, và đưa cái bình cho anh.
Bình đầy nước. E-li-a uống đến giọt cuối cùng.
- Ăn cái gì đi, anh nói. Em làm việc, em đáng được thưởng.
Lần đầu tiên kể từ cái đêm thành thất thủ, nụ cười xuất hiện trên môi cậu, cậu lao đến chỗ người đàn bà đã để trái cây và bột.
E-li-a lại tiếp tục làm việc; anh vào trong một căn nhà sụp đổ, thu gom đống đổ nát, mang các xác chết ra cái đống giữa quảng trường. Cái băng mà người chăn chiên làm cho anh đã rơi mất, nhưng cái đó không quan trọng; anh cần chứng minh cho chính mình là anh đủ mạnh để lấy lại danh dự.
Ông già, bây giờ lo thu dọn chung quanh quảng trường, có lý: ít lâu nữa, quân thù sẽ quay trở lại, thu hoạch những gì mà chúng không gieo vãi. E-li-a làm giúp công việc cho kẻ thù của người đàn bà duy nhất mà anh yêu, vì người As-xi-ri tin dị đoan, cách nầy hay cách khác, họ sẽ xây dựng lại Ak-ba. Theo tin tưởng của họ, các thần đã đặt để các thành phố theo một trật tự chính xác, hòa hợp với thung lũng, súc vật,sông ngòi, biển khơi. Trong mỗi thành phố, các thần đã dành một nơi linh thánh để họ có thể nghỉ ngơi khi họ du hành khắp thế giới. Khi một thành phố bị tàn phá, luôn có một nguy cơ lớn là trời sẽ sụp xuống.

Truyền thuyết kể rằng vị sáng lập Ak-ba đến từ phương Bắc, ông đã đi qua đây, từ nhiều thế kỷ trước. Ông quyết định ngủ lại đây và để đánh dấu nơi ông đã để đồ đạc, ông đã cắm một cọc gỗ vào đất. Ngày hôm sau, vì ông không nhổ cọc lên được, ông biết là ý muốn của trên cao; ông khuân một hòn đá đánh dấu nơi phép lạ đã xảy ra và khám phá ra một nguồn nước gần đó. Dần dà, nhưng bộ lạc đến đây định cư chung quanh viên đá và cái giếng: Ak-ba đã được sinh ra.
Một lần, quan tổng trấn đã giải thích cho E-li-a rằng: theo truyền thống Phê-ni-xi, mọi thành phố đều là điểm thứ ba, yếu tố liên kết ý chí của trời và đất, vũ trụ làm cho hạt giống nẩy mầm, đất làm cho nó lớn lên, con người thu hoạch và mang về thành phố, ở đó, họ dâng lên các thần những của lễ trước khi mang lên đặt trên núi thánh. Dù anh chưa đi nhiều, E-li-a biết rằng nhiều dân tộc trên thế giới chia sẽ quan điểm nầy.
Người As-xi-ri sợ các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm không có gì ăn; họ không muốn đảo lộn trật tự vũ trụ.
Tại sao mình lại nghĩ đến tất cả những cái đó nếu như cuộc chiến nầy là cuộc chiến giữa mình với Thiên Chúa vì Ngài đã để mình cô đơn giữa những biến động?
Cảm nghĩ anh đã có hôm qua lúc anh chống lại Chúa quay trở lại. Anh đã quên một yếu tố quan trọng, và đã cố gắng tìm, nhưng không nhớ được.
Lại thêm một ngày nữa trôi qua, họ đã thu gom gần hết các thi thể, có một người đàn bà lạ đến gần.
- Tôi đói.
- Chúng tôi cũng không có gì ăn, E-li-a trả lời. Hôm nay và hôm qua, chúng tôi chia nhau, ba người một phần ăn. Bà hãy đi kiếm nơi nào có thức ăn và báo cho tôi.
- Làm sao tìm được?
- Hỏi trẻ con. Chúng biết hết. 
Từ khi cho nó uống nước, cậu bé hình như bắt đầu có sinh khí. E-li-a sai em đi thu gom rác và những mảnh vỡ với ông già, nhưng ông không thể khích lệ cho nó làm lâu giờ; bây giờ, nó chơi đùa với những trẻ em khác trong một góc quảng trường. 
Như thế tốt hơn. Khi lớn lên, nó còn cả đời để lao động.” Nhưng anh tiếc là đã không cho nó nhịn đói trọn một đêm với lý do là nó không làm việc; nếu anh đã đối xử với nó như một trẻ mồ côi, nạn nhân của sự hung bạo của chiến binh As-xi-ri, sẽ không bao giờ em thoát khỏi trầm cảm mà em phải chịu đựng khi em về lại thành phố. Từ nay, anh có ý định để cho em ở một mình vài ngày để tự trả lời những câu hỏi của em về những gì đã xảy ra.
- Làm sao trẻ con có thể biết được cái gì? người đàn bà đến xin ăn hỏi.
- Bà hãy tự tìm hiểu lấy.
Người đàn bà và ông già giúp anh thu dọn bảo bà đến nói chuyện với trẻ con đang chơi trên đường. Chúng nói với bà vài câu, bà quay trở lại, mỉm cười rồi biến mất trong góc quảng trường.
- Làm sao anh biết rằng trẻ con biết? ông già hỏi.
- Vì tôi cũng từng là trẻ con, và tôi biết trẻ con không có quá khứ, anh trả lời, và nhớ lại câu chuyện với người chăn chiên. Chúng đã kinh hoàng vì cái đêm cuộc chiến xảy ra, nhưng bây giờ chúng quên rồi; thành phố đã trở thành một sân chơi lớn mà chúng tự do chơi đùa, không ai cản trở. Sớm hay muộn, chúng cũng sẽ tìm ra thức ăn tích trữ trong các nhà dân Ak-ba, chuẩn bị cho cuộc vây hãm.
Một đứa trẻ có thể dạy cho người lớn ba điều: hài lòng không cần lý do, luôn có chuyện gì đó để làm và biết đòi hỏi-bằng hết sức lực- cái chúng muốn. Chính vì cậu bé nầy mà tôi trở lại Ak-ba.
Chiều kia, những người già khác đến gia nhập nhóm và những đàn bà khác tham gia gom xác chết. Trẻ con đuổi diều hâu và gom củi, vải. Khi đêm xuống, E-li-a mồi lửa vào đống xác chết. Những người dân Ak-ba sống sót im lặng nhìn ngọn lửa vươn lên trời.
Bổn phận đã xong, E-li-a ngã quỵ vì mệt. Nhưng trước khi ngủ, anh lại có cảm giác như sáng nay: một điều cốt yếu mà anh đã cố gắng nhớ lại. Không phải là thời gian anh ở Ak-ba đã dạy cho anh điều đó, nhưng một bài học lịch sử hình như đã mang lại ý nghĩa cho những gì đang xảy ra.
“ Đêm đó, một người vật lộn với Ja-cob cho đến sáng. Thấy rằng không thắng được ông, người kia nói:” Thả ta ra.”

Ja-cob trả lời:” Tôi sẽ không để Ngài đi, nếu Ngài chưa chúc lành cho tôi.”
Người đó hỏi rằng:” Ngươi đã vật lộn với Thiên Chúa. Ngươi tên gì?
Ja-cob nói tên mình, người đó trả lời:” Từ nay, tên ngươi là Ít-ra-en.” 

E-li-a giật mình thức dậy và nhìn lên trời. Đó là câu chuyện anh muốn nhớ!
Trước đây lâu lắm, khi tổ phụ Ja-cob dựng trại, ban đêm,một người đã vào trong trại và vật lộn với ông cả đêm cho đến khi mặt trời mọc. Ja-cob chấp nhận vật lộn dù ông biết rằng đối thủ của ông là Thiên Chúa. Đến bình minh, ông chưa thua cuộc, và trận đấu kết thúc lúc Chúa chấp nhận ban phúc cho ông.
Câu chuyện đã được truyền tụng từ thế hệ nầy qua thế hệ khác để không ai phải lãng quên: có lúc cũng cần chiến đấu với Thiên Chúa. Tất cả mọi người, vào một lúc nào đó, trải qua một thảm kịch trong đời mình; đó có thể là một thành phố bị tàn phá, cái chết của một đứa con, bị kết án oan, một căn bệnh làm mình tàn phế suốt đời. Lúc đó, Chúa thử thách họ phải đấu tranh với Ngài và trả lời câu hỏi:” Tại sao đeo bám vào một cuộc sống quá ư ngắn ngủi, tràn đầy đau khổ? Đâu là ý nghĩa của cuộc tranh đấu?”
Người không biết trả lời thì chịu đựng. Nhưng người luôn tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống mình thì thấy rằng Chúa bất công, và chống lại định mệnh. Chính lúc đó, một ngọn lửa khác từ trời xuống , không phải là ngọn lửa hủy diệt, nhưng là ngọn lửa tàn phá những bức tường thành cũ và ban cho người đó những khả năng thực thụ. Những người hèn không bao giờ để cho ngọn lửa đó thiêu đốt tim mình- tất cả những gì họ muốn là tình cảnh nhanh trở lại như cũ, để cho họ có thể tiếp tục sống và suy nghĩ như họ đã quen làm. Trái lại, người can đảm đốt hết những gì cũ kỷ, lỗi thời, ngay cả với một giá rất cao, họ từ bỏ tất cả, kể cả Chúa và tiến về phía trước.

“Những người can đảm thường cứng đầu”
Từ trời, Thiên Chúa mỉm cười hài lòng:”đó chính là điều Ngài muốn, mỗi người nắm lấy vận mạng của chính mình. Sau hết, họ để lại cho con cháu món quà lớn nhất; khả năng chọn lựa và quyết định những hành vi của mình.
Chỉ duy nhất những người mang trong mình ngọn lửa đó mới có can đảm chống lại Thiên Chúa. Và cũng duy nhất chỉ có họ mới biết con đường trở lại với tình yêu của Ngài, vì họ hiểu rằng, rút cuộc tai họa không phải là một hình phạt, nhưng là một thử thách.
E-li-a nhớ lại từng đoạn đời mình, từ khi anh rời xưởng mộc, anh đã chấp nhận sứ vụ của mình mà không tranh cãi. Dù rằng sứ mệnh nầy là chính đáng- và anh nghĩ là chính đáng- anh chưa bao giờ có cơ hội quan sát những gì xảy ra trên những con đường mà anh đã từ chối dấn thân vì sợ mất đức tin, lòng tận trung và quyết tâm. Anh nhận ra rằng đi theo con đường của những người bình thường rất nguy hiểm- anh sẽ quen với con đường đó và chỉ thích những cái gì anh thấy. Anh không hiểu anh đã là một người như mọi người, dù cho anh có nghe tiếng các thiên sứ và thỉnh thoảng nhận lệnh từ Thiên Chúa;anh đã rất tự tin tin rằng anh biết anh muốn gì, và anh đã sống như những người chưa bao giò có một quyết định quan trọng trong đời.
Anh đã thoát khỏi sự hồ nghi, thất bại, những lúc giao động. Nhưng Thiên Chúa đại lượng và Ngài đã dẫn anh xuống vực sâu của điều không thể tránh được để chứng minh cho anh thấy rằng con người cần phải chọn lựa-không phải là chấp nhận- định mệnh.
Nhiều năm trước, trong một đêm như thế nầy, Ja-cob đã không chịu để cho Thiên Chúa ra đi trước khi ban phúc lành cho người. Chính lúc đó, Chúa đã hỏi:” Ông tên gì?”
Vấn đề chính ở đây: có một cái tên. Một khi Ja-cob đã trả lời, Thiên Chúa đã đặt tên cho người là Ít-ra-en. Mỗi người có một tên cha mẹ đặt khi sinh ra, nhưng họ phải biết học cách đặt tên cho đời mình theo cái chữ mà mình đã chọn để cho đời mình có một ý nghĩa.
- Em là Ak-ba, người đàn bà nói.
Nhờ cái chết của người đàn bà anh yêu, thành phố bị phá hủy để cho E-li-a hiểu rằng anh cần một cái tên. Và ngay lúc đó, anh đặt cho đời mình một cái tên: Giải thoát.
Anh đứng dậy và nhìn quảng trường trước mặt: khói từ đống xác chết vẫn còn nghi ngút. Lúc châm lửa, anh đã đi ngược một tập tục lâu đời của quê hương anh bắt buộc phải chôn người chết theo nghi thức. Anh đã đấu tranh chống lại Thiên Chúa và truyền thống khi quyết định hỏa thiêu, nhưng anh cảm thấy mình không phạm tội vì với vấn đề mới, cần có giải pháp mới. Thiên Chúa nhân từ vô hạn và công minh vô cùng với những ai không có can đảm để hành động.
Anh lại nhìn quanh quảng trường một lần nữa:một vài người sống sót còn chưa đi ngủ và họ nhìn chăm chú vào đống lửa như thể đống lửa đó cũng thiêu luôn cả kỷ niệm, quá khứ, hai trăm năm hòa bình của Ak-ba. Thời gian sợ hãi và chờ đợi đã qua đi: bây giờ chỉ còn là xây dựng hay buông xuôi. 
Cũng như E-li-a, họ cũng có thể chọn cho mình một tên mới. Hòa giải, Khôn ngoan, Người tình, Lữ khách, có quá nhiều lựa chọn, nhiều như sao trên trời, nhưng mỗi người phải đặt cho đời mình một tên mới.
E-li-a đứng dậy và cầu nguyện:
- Lạy Chúa, con đã đấu tranh chống lại Chúa và con không hỗ thẹn. Nhờ đó, con khám phá ra rằng con đang đi con đường con muốn, không phải vì cha mẹ con, truyền thống của quê hương hay chính Ngài áp đặt.
Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa trong lúc nầy. Con muốn dâng lên Chúa tất cả sức mạnh của ý chí con mà không phải là sự hèn nhát của kẻ đã không biết chọn cho mình một con đường khác. Và để Ngài giao cho con một sứ mệnh lớn, con phải theo đuổi trận chiến chống lại ngài, cho đến khi nào Ngài chúc lành cho con.
Tái thiết Ak-ba. E-li-a xem đó là chống lại Chúa, nhưng thực ra là quay về với Chúa.
Ngày hôm sau, người đàn bà đã xin thức ăn quay lại. Có nhiều người phụ nữ đi theo bà.
- Chúng tôi đã khám phá ra nhiều kho thức ăn, bà nói. Vì nhiều người đã chết hoặc bỏ đi với quan tổng trấn, chúng ta có đủ thức ăn cho một năm.
- Hãy tìm những người lớn tuổi để lo việc phân phối thức ăn, E-li-a ra lệnh. Mấy bà có kinh nghiệm tổ chức.
Người già không thiết sống.
Dù vậy cũng mời họ đến đây.
Người đàn bà chuẩn bị quay gót thì E-li-a cầm tay bà lại:
- Bà biết viết chữ không?
- Không.
- Tôi đã học, tôi có thể dạy cho bà. Cái đó sẽ có ích cho bà và giúp tôi điều hành thành phố.
- Nhưng quân As-xi-ri sắp trở lại.
- Khi họ trở lại, họ sẽ cần chúng ta để quản trị thành phố.
- Tại sao làm điều đó cho quân thù?
- Làm thế để mỗi người có thể cho đời mình một cái tên mới. Quân thù không phải là cái cớ để phủ nhận sức mạnh của chúng ta.
Những người già tới, như anh dự kiến.
- Ak-ba cần sự giúp đỡ của quí vị, E-li-a nói với họ. Và không phải vì tuổi tác mà các ông từ chối; chúng ta cần tuổi trẻ mà quí vị đã có và đã mất.
- Chúng tôi không biết tìm nó ở đâu, một người nói. Tuổi trẻ đã biến mất với những nếp nhăn và vỡ mộng.
- Không đúng. Các ông chưa bao giờ có tham vọng và vì thế tuổi trẻ trốn tránh các ông. Đây là lúc quí vị phải tìm lại nó vì chúng ta có một mơ ước chung: xây dựng lại Ak-ba.
- Làm sao chúng ta có thể làm điều không thể.
- Với nhiệt tâm.
Những ánh mắt mờ đi vì buồn phiền và tuyệt vọng lại ánh lên. Họ không còn là những cư dân vô dụng thường đến tham dự các buổi xét xử để tìm kiếm đề tài cho các cuộc nói chuyện phiếm ban chiều; bây giờ, họ có trước mắt một nhiệm vụ quan trọng, và họ cần thiết.
Những người mạnh khỏe nhất tháo dỡ những vật dụng còn sử dụng được từ các căn nhà bị tàn phá nặng nề để tu bổ những căn còn dùng được. Những người già nhất giúp xúc tro xác chết đổ ra đồng để mọi người có thể nhớ đến những người đã qua đời trong vụ mùa tới;những người khác giúp xay lúa trong tất cả các kho để làm bánh và kéo nước.
Hai đêm sau, E-li-a tập trung mọi người trên quảng trường bây giờ đã được quét dọn gần hết rác rến. Người ta thắp đuốc và E-li-a bắt đầu nói:
- Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Chúng ta có thể để cho người ngoại quốc làm việc nầy, nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta từ chối cơ may duy nhất mà thảm họa mang lại cho chúng ta: xây dựng lại cuộc đời chúng ta.
Tro cốt những người chết mà chúng ta đã hỏa thiêu cách đây vài ngày sẽ nuôi dưỡng mùa màng sẽ mọc lên trong mùa xuân tới đây. Đứa con đã mất trong đêm xảy ra cuộc chiến đã biến thành nhiều đứa con trẻ khác chạy chơi tự do trong thành phố nầy và đùa giỡn trên những nơi cấm, vào trong những nhà mà chúng chưa bao giờ biết. Cho đến nay, chỉ duy nhất những đứa trẻ biết vượt qua biến cố đau thương vì chúng không có quá khứ-với chúng, cái quan trọng nhất là hiện tại. Vậy, chúng ta hãy làm như chúng.
- Người ta có thể dập đi ngọn lửa đau thương của mất mát không? Một bà hỏi.
E-li-a quay lại và chỉ lên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm, luôn có mây mù che phủ. Tường thành đã bị đổ nên người ta có thể thấy nó từ trung tâm thành phố.
- Tôi tin vào Thiên Chúa Duy Nhất, nhưng các ông bà tin vào các vị thần ở trên mây, trên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm. Tôi không muốn tranh cãi bây giờ để biết rằng Chúa của tôi uy quyền hơn, mạnh mẽ các thần của quý vị hay không; tôi không muốn nêu ra những khác biệt, nhưng muốn nêu lên những tương đồng. Tấn thảm kịch vừa rồi đã qui tụ chúng ta lại với nhau trong một cảm nhận chung: sự tuyệt vọng. Tại sao lại như vậy? Bởi vì chúng ta nghĩ rằng đã có sẵn một câu trả lời, một giải pháp trong đầu chúng ta, và chúng ta không chấp nhận bất cứ thay đổi nào.
Quí vị và bản thân tôi, chúng ta là dân của những nước chuyên sống về thương mại, nhưng chúng ta cũng biết hành xử như những chiến binh, ông nói tiếp. Và một người lính thì luôn nhận thức được vì sao anh ta phải chiến đấu. Anh ta sẽ không tham gia những cuộc chiến không mang lại lợi ích, và không mất thời gian đi khiêu khích.
Một chiến binh chấp nhận thất trận. Anh ta không xem đó là một sự kiện vô tình, cũng không cố gắng để làm cho nó biến thành chiến thắng. Nỗi đau mất mát làm cho anh ta xót xa, anh ta khổ sở vì sự lạnh lùng và sự cô đơn làm anh ta tuyệt vọng. Nhưng khi đã vượt qua những điều đó, anh ta sẽ băng bó vết thương và lại lên đường. Một người lính biết rằng, một cuộc chiến bao hàm nhiều trận đánh; và anh ta tiến bước.
Những thảm kịch đã xảy ra. Chúng ta có thể truy tìm ra nguyên nhân, và đổ tội cho người khác, hình dung ra là cuộc sống của chúng ta sẽ khác biết bao nếu không có thảm kịch. Nhưng tất cả những cái đó không quan trọng:sự việc đã xảy ra, thế thôi. Từ đó, chúng ta phải quên nỗi sợ mà thảm kịch gây ra nơi chúng ta và tiến hành xây dựng lại.
Mỗi người trong các vị từ nay sẽ chọn cho mình một tên mới. Đó sẽ là một cái tên linh thiêng, nó sẽ tóm gọn những ước mơ của quý vị. Tôi đã chọn cho mình cái tên: Giải thoát.
Quảng trường im lặng một lúc. Rồi người đàn bà đã đến giúp E-li-a đầu tiên đứng dậy:
- Tên của tôi là “Đoàn tụ” bà nói.
- Tên tôi là “ Khôn ngoan”, một cụ già tuyên bố.
Cậu con trai của bà góa mà E-li-a yêu mến la to” Tên em là “ Chữ cái”.
Mọi người cười ồ. Xấu hổ, cậu bé ngồi xuống.
- Làm sao lại có thể lấy tên là “ Chữ cái” được, một cậu bé nói lớn.
E-li-a đã có thể can thiệp nhưng anh nghĩ là tốt hơn , để cho thằng bé tự giải thích.
- Bởi vì đó là điều mà mẹ tôi đã làm, cậu bé nói. Mỗi khi em nhìn thấy chữ viết, em nhớ đến mẹ em.”
Lần nầy, không ai cười. Dần dần, những trẻ mồ côi, các cụ già, các bà góa của Ak-ba đọc to tên mình và giải thích. Buổi họp chấm dứt, E-li-a khuyên mọi người đi ngủ sớm: họ sẽ phải làm việc ngày mai.
Anh nắm tay cậu bé và cả hai bước về một góc của quảng trường, nơi họ đã dựng một cái lều.
Kể từ đêm đó, anh dạy cho nó bảng chữ cái By-blos.

Ak-ba thay hình đổi dạng. Cậu bé học vần thật nhanh và bây giờ cậu đã có thể viết được những từ có nghĩa. E-li-a nhờ em ghi lại trên những bảng đất sét công việc tái thiết thành phố.
Những bảng đất sét được nung trong một cái lò tạm thời, trở nên gốm và được một đôi vợ chồng già cất giữ cẩn thận. Trong những buổi họp hàng đêm, E-li-a yêu cầu những cụ già kể lại những gì họ đã thấy khi còn bé và anh ghi lại càng nhiều chuyện càng tốt.
Chúng ta lưu giữ ký ức của Ak-ba trên một loại vật liệu không cháy được, anh giải thích. Một ngày kia, con chúng ta, cháu chúng ta sẽ biết là chúng ta đã không chấp nhận thất bại và điều không tránh khỏi đã bị vượt qua. Đó có thể là một gương sáng.
Hàng đêm, sau khi đã học với cậu bé, E-li-a đi quanh thành phố trống trải, anh đi cho đến đầu con đường dẫn về Giê-ru-sa-lem, nghĩ đến chuyện ra đi, nhưng rồi anh từ bỏ ý định.
Sức nặng của công việc buộc anh phải chú tâm đến hiện tại. Anh biết là cư dân Ak-ba trông cậy vào anh để tái thiết thành phố; anh đã làm họ thất vọng một lần, ngày anh đã không thể can ngăn việc giết tên do thám để tránh chiến tranh. Dù sao, Thiên Chúa cũng đã cho một cơ hội thứ hai. Phần nữa, anh càng ngày càng quyến luyến cậu bé; anh muốn dạy nó, không chỉ chữ viết Bi-blos, nhưng cả đức tin vào Thiên Chúa và sự khôn ngoan của tổ tiên em.
Tuy nhiên, anh không quên là trên quê hương anh, một bà hoàng hậu đang trị vì với các thần ngoại quốc. Không còn thiên thần cầm gươm lửa; anh được tự do ra đi khi nào anh muốn và làm điều anh muốn.
Hằng đêm, anh nghĩ đến chuyện ra đi. Và hằng đêm, anh giơ tay lên trời cầu nguyện:
Gia-cob đã vật lộn một đêm trọn và ngài đã được chúc phúc. Con đã chiến đấu chống lại Ngài trong nhiều ngày, nhiều tháng và Ngài từ chối nghe lời con. Nhưng nếu Ngài nhìn chung quanh Ngài, Ngài sẽ thấy là con đang thắng: Ak-ba trổi dậy từ hoang tàn và con sắp xây dựng lại cái mà Ngài đã dùng gươm của người As-xi-ri để biến thành tro, thành bụi.
Con sẽ chiến đấu chống Ngài cho đến khi nào ngài chúc phúc cho thành quả công việc của con. Một ngày nào đó, ngài sẽ phải trả lời con.
Đàn bà và trẻ con mang nước ra đồng chống hạn. Một hôm, dưới ánh mặt trời chói chang, E-li-a nghe những lời nầy:
Chúng ta làm việc không ngừng, chúng ta không còn nghĩ đến đau thương của đêm hôm đó, và chúng ta quên việc quân As-xi-ri sẽ trở lại sau khi chúng đã thu tóm Tyr và Si-don, By-blos và cả nước Phê-ni-xi. Điều đó tốt cho chúng ta.
Nhưng chúng ta rất tập trung vào việc tái thiết thành phố, hình như không có gì thay đổi; chúng ta đâu thấy thành quả công việc của mình.
E-li-a suy nghĩ hồi lâu về những lời nầy. Anh yêu cầu, từ nay, cuối mỗi ngày làm việc, mọi người tập trung dưới chân Ngọn Núi Thứ Năm để cùng nhau ngắm mặt trời lặn.
Thường thì họ quá mệt, nên hầu như chẳng nói gì với nhau, nhưng họ phát hiện ra tầm quan trọng của việc để cho đầu óc của mình lơ lửng không mục đích, như mây trên trời. Nhờ đó, lo âu rời khỏi trí óc và mọi người tìm lại được cảm hứng cho ngày mai.
Khi thức dậy, E-li-a thông báo hôm nay anh không đi làm. 
Hôm nay, bên xứ tôi, người ta cử hành lễ “Yom Kippour- Xá tội”.
- Trong linh hồn anh không có tội lỗi, một bà nói. Anh đã làm việc hết sức.
- Nhưng truyền thống phải được gìn giữ. Và tôi sẽ tôn trọng.”
Các bà đi mang nước ra đồng, các ông già trở lại với công việc, dựng lại các bức tường, làm cửa bằng gỗ. Trẻ con giúp đóng khuôn làm gạch , sau đó sẽ nung trong lò. E-li-a nhìn họ làm, niềm vui trong lòng. Đoạn anh rời Ak-ba đi về phía thung lũng.
Anh bước đi không mục đích, đọc những kinh mà anh đã học được khi còn nhỏ. Mặt trời chưa lên hẳn và từ nơi anh đứng, anh thấy cái bóng to lớn của Ngọn Núi Thứ Năm bao trùm một phần thung lũng. Anh có cảm giác sợ: trận chiến giữa Thiên Chúa của Ít-ra-en và các thần Phê-ni-xi sẽ kéo dài nhiều thế hệ, nhiều ngàn năm.
Anh nhớ lại một đêm anh đã lên đến đỉnh ngọn núi và đã nói chuyện với thiên sứ; nhưng từ lúc Ak-ba bị tàn phá, anh không còn nghe những tiếng nói từ trời nữa.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày Xá tội, và con đã phạm nhiều tội với Ngài”, anh nói và hướng về phía Giê-ru-sa-lem.”Con đã yếu đuối vì con đã quên sức mạnh của chính con. Con đã mềm yếu khi đáng ra con phải cứng rắn. Con đã không lựa chọn, vì sợ quyết định sai lầm. Con đã phạm thượng khi đáng ra con phải tạ ơn.
Lạy Chúa, nhưng những lầm lỗi của Ngài đối với con cũng nhiều. Ngài đã bắt con phải đau khổ hơn cần thiết, lấy đi khỏi thế giới nầy người mà con yêu thương. Ngài đã tàn phá thành phố đã tiếp đón con, Ngài đã làm cho con thất bại khi tìm kiếm, Sự cứng rắn của Ngài đã làm con quên mất tình yêu con dành cho Ngài. Trong lúc nầy, con đang chiến đấu chống lại Ngài, và Ngài không chấp nhận trận đấu nầy.
Nếu so sánh những tội của con và của Ngài, Ngài thấy là Ngài mắc nợ con. Nhưng hôm nay là ngày Xá tội, Ngài tha lỗi cho con rồi con cũng tha thứ cho Ngài để chúng ta có thể cùng nhau bước đi.
Lúc đó, có làn gió thoảng qua và anh nghe thiên thần bản mệnh nói với anh “E-li-a, ngươi làm đúng. Thiên Chúa đã chấp nhận trận đấu của ngươi.”
Nước mắt chảy trên má anh. Anh quỳ gối và ôm hôn nền đất khô cằn trong thung lũng.
- Cảm ơn thiên sứ đã đến, tôi còn một chút nghi ngờ: làm như thế nầy có là một tội không?”
- Khi một chiến binh đánh với huấn luyện viên, thiên thần nói, người đó có lỗi không?
- Không, đó là cách duy nhất để anh ta học kĩ năng anh ta cần.
- Vậy thì cứ tiếp tục cho đến khi nào Chúa gọi ngươi và cho ngươi về Ít-ra-en, thiên thần nói tiếp. - - Đứng lên và tiếp tục chứng minh cuộc chiến đấu của ngươi có một ý nghĩa nào đó, bởi vì ngươi đã biết vượt qua giòng chảy của điều không thể tránh. Nhiều người đã bơi qua, nhưng đã chìm; người khác bị ném đến những nơi không dành cho họ. Nhưng ngươi, ngươi đã đường hoàng vượt qua, ngươi biết kiểm soát hướng đi của con tàu và ngươi đã cố gắng biến đau thương thành hành động.
- Đáng tiếc là ngài mù, E-li-a nói. Nếu không, ngài có thể thấy trẻ mồ côi, quả phụ và người già đã làm được gì để tái tiết thành phố. Rồi họ sẽ trở lại như trước đây.
- Ta hy vọng là không, thiên thần đáp lại. Thật ra, họ đã trả giá đắt để cuộc đời họ thay đổi.
E-li-a mỉm cười. Thiên thần có lý.
- Ta hy vọng là ngươi sẽ cư xử như người được cho một vận may thứ hai: đừng lặp lại sai lầm.
- Tôi sẽ không quên đâu, ông vui mừng trả lời vì thiên thần đã trở lại.

Các đoàn lữ hành không đi ngang thung lũng nữa; quân As-xi-ri có thể đã phá đường và thay đổi hướng của nhưng con đường buôn bán. Hàng ngày, trẻ con trèo lên ngọn tháp canh duy nhất còn sót lại; chúng được giao trách nhiệm canh chừng và thông báo nếu quân thù trở lại.
E-li-a dự tính sẽ đón họ cách đường hoàng và giao lại quyền chỉ huy. Lúc đó, anh có thể ra đi.
Nhưng , mỗi ngày qua, anh cảm thấy Ak-ba là một phần đời anh. Sứ mệnh của anh có lẽ không phải là hạ bệ Je-za-ben, nhưng là ở đây với những người nầy cho đến chết, đóng vai trò người đầy tớ của quân As-xi-ri. Anh sẽ giúp tái lập các con đường thương mại, anh sẽ học ngôn ngữ của quân thù và,trong những lúc nghỉ ngơi, anh có thể chăm sóc cái thư viện đang càng ngày càng phong phú.
Cái mà người ta đã lấy đi, một đêm nào đó, để chấm dứt cuộc đời của một thành phố bây giờ trở thành vận hội để nó trở nên đẹp hơn. Công việc tái thiết bao gồm việc mở rộng đường, lợp những mái nhà chắc chắn hơn, lắp đặt một hệ thống nước để đưa nước tới những nơi xa nhất. Tâm hồn anh cũng đổi mới; mỗi ngày qua anh đều học được từ trẻ con, phụ nữ, người già cái mới gì đó. Nhóm người nầy- tuyệt đối không thể rời bỏ thành phố vì họ không đi được- bây giờ kết thành một nhóm có kỷ luật và thạo việc. 
- Nếu ông tổng trấn biết được họ có ích như thế nào, có lẽ ông đã nghĩ ra một cách phòng thủ khác và Ak-ba đã không bị tàn phá.
E-li-a suy nghĩ một chút và hiểu ra rằng ông lầm. Ak-ba phải bị tàn phá, để có thể đánh thức sức mạnh ngủ quên trong họ.

Nhiều tháng trôi qua, và quân As-xi-ri không thấy trở lại. Ak-ba bây giờ đã sẵn sàng và E-li-a có thể nghĩ tới tương lai. Phụ nữ thu gom vải để may áo quần. Người già sắp xếp lại chỗ ở và lo thu dọn vệ sinh cho thành phố. Trẻ em cũng phụ giúp khi có yêu cầu, nhưng thường thì chúng vui chơi cả ngày: đó là công việc chính của chúng.
E-li-a sống với cậu bé trong một ngôi nhà nhỏ bằng đá, được xây lại trên mảnh đất khi xưa là một kho hàng. Mỗi tối, cư dân Ak-ba ngồi chung quanh đống lửa ở trung tâm quảng trường và kể những câu chuyện họ đã nghe trong đời; cùng với cậu bé, ông ghi lên các bảng đất sét rồi hôm sau đem đi nung. Thư viện lớn lên trông thấy.
Người đàn bà đã bị mất con cũng học chữ By-blos. Khi thấy bà đã viết được thành câu, anh nhờ bà dạy chữ cho toàn bộ dân chúng để nếu người As-xi-ri trở lại, họ có thể làm phiên dịch hay giáo viên.
Chính đây là điều mà thầy tư tế muốn tránh”, chiều kia một ông già tên gọi “Đại dương” nói, vì ông muốn có tâm hồn rộng như đại dương. “ Cầu cho chữ viết Bi-blos trường tồn và đe dọa các thần trên Ngọn Núi Thứ Năm.
- Ai tránh được điều không thể tránh? Anh nói.
Mọi người làm việc ban ngày, buổi chiều cùng ngắm mặt trời lặn và kể chuyện ban tối.
E-li-a hãnh diện về công việc của mình. Và anh càng lúc càng yêu công việc
Một thằng bé từ tháp canh chạy xuống.
- Con thấy bụi mù bay lên cuối chân trời! nó nói giọng kích động. Quân thù đang quay lại!
E-li-a trèo lên tháp và thấy thông tin chính xác. Anh tính toán và cho rằng họ sẽ đến Ak-ba ngày mai.
Buổi chiều, anh thông báo với mọi người là họ không cần ngắm mặt trời lặn nhưng tập trung tại quảng trường. Ngày làm việc chấm dứt, anh đến gặp mọi người và để ý thấy mọi người lo sợ.
- Hôm nay, chúng ta không kể chuyện quá khứ nữa , và cũng không nói đến các dự định tương lai của Ak-ba. Chúng ta sẽ nói về chúng ta.”
Không ai nói gì.
Trăng sáng trên trời một lúc lâu. Ngày đó, chúng tôi linh cảm, nhưng chúng tôi không muốn chấp nhận: Ak-ba đã bị tàn phá. Khi quân As-xi-ri rút đi, những người giỏi giang nhất đã chết. Những người sống sót thì cho rằng không nên ở lại và họ đã quyết định ra đi. Chỉ còn lại những người già, bà góa và cô nhi, có nghĩa là những người không được việc gì.
Hãy nhìn chung quanh đây; quảng trường đẹp hơn bao giờ hết, nhà cửa chắc chắn hơn, lương thực được chia sẽ và mọi người đều biết chử. Trong thành phố, còn có một kho lưu trử các bảng đất sét trên đó chúng ta đã ghi những câu chuyện của mình và các thế hệ tương lai sẽ nhớ lại những việc chúng ta làm.
Hôm nay, chúng ta biết rằng; người già, cô nhi, phụ nữ cũng làm được việc. Chúng ta là một nhóm đủ mọi lứa tuổi, đầy nhiệt tình và đã cho cuộc đời chúng ta một tên gọi, một ý nghĩa.
Lúc tái thiết thành phố, chúng ta biết rằng quân As-xi-ri sẽ trở lại. Chúng ta biết rằng, một ngày nào đó chúng ta phải trao thành phố lại cho họ và cùng với đó là công sức, mồ hôi, niềm vui của chúng ta khi thấy thành phố đẹp hơn.
Ánh lửa chiếu vào những giọt nước mắt chảy trên mặt. Kể cả trẻ em, thường chơi đùa trong các buổi họp đêm, rất chăm chú nghe lời. E-li-a nói tiếp:
Điều đó không quan trọng. Chúng ta đã hoàn thành trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa vì chúng ta đã chấp nhận thử thách của Ngài và danh dự của trận chiến với Ngài. Trước đêm đó, Ngài đã nói:” Bước đi!” Nhưng chúng ta đã không nghe. Tại sao?
Bởi vì mỗi người trong chúng ta đã tự mình quyết định cho tương lai chính mình: tôi thì mong hạ bệ Je-za-ben, người phụ nữ bây giờ có tên “Đoàn tụ” muốn con bà trở thành thủy thũ, ông cụ có tên “ Khôn ngoan” đơn giản chỉ mong những ngày cuối đời ngồi uống rượu yên ổn trên quảng trường. Chúng ta đã quen với bí nhiệm của cuộc sống và không xem nó quan trọng.”
Lúc đó, Chúa nói:” Chúng không muốn bước đi sao? Vậy thì chúng sẽ bị ngừng lại trong thời gian lâu dài!
Và đến đây, chúng ta đã hiểu ý Chúa. Thanh gươm As-xi-ri đã lấy đi sinh mạng của thanh niên, và sự sợ hãi đã xâm chiếm người đứng tuổi. Giờ nầy, cho dù họ đang ở đâu, họ đang còn bị ngừng lại; họ đã chấp nhận lời nguyền của Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta, chúng ta đã chiến đấu chống lại Thiên Chúa. Vì chúng ta đã chiến đấu cùng với những người đàn ông, đàn bà mà chúng ta yêu quí trong đời, bởi vì chính cuộc chiến đấu chúc phúc cho chúng ta và làm cho ta lớn lên. Chúng ta nắm lấy cơ hội của tấn thảm kịch và chúng ta đã hoàn thành bổn phận chúng ta đối với Ngài, chứng minh rằng chúng ta có thể vâng lệnh bước đi. Dù trong những tình huống xấu nhất, chúng ta đã tiến tới.


Có những lúc, Thiên Chúa yêu cầu vâng phục. Nhưng có những lúc Ngài muốn thử thách ý chí của chúng ta và đặt chúng ta trước thử thách để nhận ra tình yêu của Ngài. Chúng ta đã hiểu được thiên ý khi tường thành Ak-ba sụp đổ: nó đã mở cho ta thấy chân trời và cho mỗi người thấy mình có thể làm được gì. Chúng ta ngưng suy nghĩ về cuộc đời, chúng ta quyết định sống cuộc đời mình. Kết quả tốt đẹp.

E-li-a nhận thấy bây giờ những cặp mắt sáng long lanh. Họ đã hiểu.


Ngày mai, tôi sẽ giao nộp Ak-ba mà không kháng cự; tôi được tự do ra đi khi nào tôi muốn, vì tôi đã hoàn thành công việc Chúa giao. Tuy nhiên, máu của tôi, mồ hôi của tôi, tình yêu của tôi đã chôn vùi trên đất nầy, và tôi quyết định sống những ngày còn lại của đời tôi ở đây, để tránh không cho đời tôi bị phá hủy thêm một lần nữa. Yêu cầu mỗi người tự quyết định như mình muốn, nhưng xin đừng quên điều nầy: quí vị tốt hơn là quý vị nghĩ.
Quý vị đã nắm lấy cơ may mà thảm kịch mang đến; điều đó không phải ai cũng làm được.”
E-li-a thông báo là buổi họp kết thúc. Anh bảo cậu bé là anh sẽ về muộn và bảo nó cứ đi ngủ, không cần chờ anh.
Anh đi đến đến thờ, công thự duy nhất thoát khỏi tàn phá; họ không cần xây nó lại, cho dù tượng thần đã bị người As-xi-ri lấy đi. Anh kính cẩn chạm vào viên đá đánh dấu nơi mà theo truyền thuyết, một tổ phụ đã cắm cây gậy xuống và không rút lên được.
Anh nghĩ, bên quê anh, Je-za-ben đã xây nhiều lâu đài như thế nầy và một phần đồng bào anh cúi lạy trước tượng thần Ba-an và các thần khác. Lại một lần nữa, cái linh cảm vụt qua đầu anh: cuộc chiến giữa Thiên Chúa của Ít-ra-en và các thần Phê-ni-xi sẽ kéo dài rất lâu, lâu hơn đầu óc anh có thể nghĩ ra. Như trong một thị kiến, anh thấy các vì sao bay ngang qua mặt trời và gieo rắc cái chết trên hai đất nước. Những người nói những ngôn ngữ xa lạ phi những con ngựa bằng sắt và đánh nhau giữa các tầng mây.
- Đó chưa phải là cái ngươi cần thấy bây giờ, vì thời chưa đến, thiên thần bản mệnh nói với anh. Hãy nhìn qua cửa sổ.
E-li-a làm theo. Bên ngoài, trăng rằm chiếu sáng các con đường, các ngôi nhà của Ak-ba, và, dù đã khuya, anh có thể nghe thấy tiếng cười nói của cư dân. Mặc cho việc người As-xi-ri sắp trở lại, dân nầy còn muốn sống, họ sẵn sàng đối mặt với một giai đoạn mới của cuộc đời.
Khi đó, anh thấy một bóng người và anh biết đó là người đàn bà anh rất yêu mến và bây giờ hãnh diện bước đi giữa thành phố. Anh mỉm cười và có cảm giác như tay bà chạm vào mặt mình.
- Em hãnh diện, hình như bà nói. Ak-ba đẹp thật.
Anh muốn khóc, nhưng nhớ lại cậu bé không bao giờ dám để rơi xuống một giọt nước mắt vì mẹ mình. Anh nín khóc và nhớ lại những khoảnh khắc đẹp nhất mà họ đã sống chung với nhau- từ buổi gặp gỡ trước cổng thành cho đến khi bà viết chữ “yêu” trên tấm đất sét. Anh nhớ lại cái áo bà mặc, tóc và cái mũi thanh tú của bà.
Em đã nói với anh em là Ak-ba. Vì thế, anh đã chăm sóc cho em, anh đã băng bó các vết thương của em và bây giờ anh trả sự sống lại cho em. Chúc em hạnh phúc với những người bạn mới. Anh muốn nói với em một điều: anh cũng là Ak-ba nhưng anh đã không biết.”
Anh chắc chắn là bà có cười.
Từ lâu, gió sa mạc đã xóa dấu chân chúng ta trên cát. Nhưng mỗi giây phút đời anh, anh nhớ lại những gì đã trải qua, và em còn đi lại trong giấc mơ của anh, trong cuộc đời anh. Cảm ơn em đã đến trong đời anh.”
Anh nằm ngủ ở đó, cảm thấy hình như người đàn bà vuốt ve tóc mình.

Người cầm đầu đoàn thương nhân nhìn thấy một nhóm người áo quần rách rưới ở trên đường. Anh tưởng là quân cướp và đề nghị mọi người lấy vũ khí ra.
- Các ông là ai? Anh hỏi.
- Chúng tôi là dân Ak-ba, một người mắt tinh anh, râu ria xồm xoàm trả lời. Người trưởng đoàn chú ý là người nầy nói với âm sắc của người nước ngoài.
- Ak-ba đã bị tàn phá. Chúng tôi được tổng trấn Tyr và Si-don đến tìm cái giếng để các đoàn lữ hành có thể lại mượn đường đi qua thung lũng nầy. Giao thương với phần còn lại của đất nước không thể bị gián đoạn.
- Ak-ba vẫn còn, người đàn ông nói. Người As-xi-ri ở đâu?
- Ai mà biết họ đang ở đâu, người trưởng đoàn vừa cười vừa trả lời. Họ làm cho đất đai chúng ta phì nhiêu hơn và từ lâu, họ nuôi sống chim chóc và thú hoang của ta.
- Nhưng đó là một đạo quân hùng hậu.
- Một đạo quân không có sức mạnh nào nếu người ta biết nó sắp tấn công. Ak-ba đã báo động rằng chúng sắp đến, Tyr và Si-don đã tổ chức phục kích phía bên kia thung lũng. Những tên thoát chết đã bị các thuyền buôn bắt bán làm nô lệ.
Những người áo quần rách rưới vỗ tay và ôm nhau, khóc và cười.
- Các ông bà là ai, người thương nhân lặp lại? Anh là ai? Ông hỏi người cầm đầu.
- Chúng tôi là những chiến binh trẻ của Ak-ba, anh ta trả lời.

Vụ mùa thứ ba đã bắt đầu và E-li-a là tổng trấn của Ak-ba. Lúc đầu, đã có nhiều chống đối- ông tổng trấn trước muốn quay trở lại chức vụ, như truyền thống dạy. Nhưng dân thành từ chối đón tiếp ông và dọa sẽ bỏ thuốc độc xuống giếng. Chính quyền Phê-ni-xi cuối cùng phải nhượng bộ- suy cho cùng, Ak-ba chẳng quan trọng gì, nếu có cũng chỉ nhờ có cái nguồn nước cho khách lữ hành, và nhà nước Ít-ra-en đang nằm trong tay một công chúa của Tyr. Khi giao chức tổng trấn cho một người Ít-ra-en, chính quyền Phê-ni-xi có thể xây dựng một liên minh thương mại vững chắc hơn.
Tin nầy đồn ra khắp vùng, do những đoàn thương nhân đưa đi. Một nhóm nhỏ ở Ít-ra-en coi E-li-a là một tên phản bội xấu xa nhất, nhưng Je-za-ben sẽ ra tay khi cần để tiêu diệt nhóm chống đối nầy và hòa bình trong vùng sẽ được lập lại. Hoàng hậu hài lòng vì kẻ thù lớn nhất của bà đã trở thành người bạn tốt nhất.
Tin đồn về một cuộc xâm lăng mới của As-xi-ri loan truyền đi và người ta xây dựng lại tường thành. Người ta đã hoàn tất một hệ thống phòng thủ mới, với những lính canh và đơn vị quân đội giữa Tyr và Ak-ba; bằng cách nầy, nếu một trong hai thành bị vây hãm, thành kia có thể đưa quân tăng viện theo đường bộ và tiếp tế bằng đường biển.
Cả vùng phát triển trông thấy.; quan tổng trấn mới người Ít-ra-en đã thiết lập một hệ thống kiểm soát thuế và hàng hóa nghiêm ngặt, dựa trên chữ viết. Người cao tuổi ở Ak-ba phụ trách mọi việc, dùng những kỹ thuật mới và kiên nhẫn giải quyết những vấn đề phát sinh.
Các bà phân chia thời gian giữa việc đồng áng và dệt vải. Trong thời kỳ bị bao vây, để nâng cao chất lượng số vải ít ỏi còn lại, họ buộc phải sáng tạo nên những mẫu thêu mới; khi những khách hàng đầu tiên đến, họ ngưỡng mộ các mẫu mới và làm nhiều đơn đặt hàng.
Trẻ em đã học chữ By-blos; E-li-a chắc chắn rằng một ngày nào đó sẽ hữu ích cho các em. Như mọi khi, trước mùa gặt, ông đi dạo ngoài đồng và cảm ơn Chúa vì những ân huệ đã ban cho ông trong những năm nầy. Ông thấy những người mang thúng đầy lúa, trẻ con chơi đùa chung quanh. Ông chào họ và họ chào lại ông.
Nụ cười trên môi, ông đi về phía hòn đá mà trước đây lâu lắm, ông đã nhận được tấm bảng có chữ “Yêu”. Ông đến thăm nơi nầy hàng ngày, để ngắm mặt trời lặn và nhớ lại giây phút họ ở bên nhau.

“Lời Chúa phán với E-li-a năm thứ ba:
Đến trình diện với A-kap, ta sẽ cho mưa xuống trên đất.
Từ viên đá ông ngồi, E-li-a thấy trời đất rúng động chung quanh ông. Trời tối sầm một lúc, rồi mặt trời xuất hiện, chiếu sáng.
Ông thấy ánh sáng. Một thiên sứ của Chúa đứng trước mặt ông.
- Cái gì vậy? E-li-a sợ hãi hỏi. Thiên Chúa đã tha tội cho Ít-ra-en rồi sao?
- Không, thiên sứ nói. Chúa muốn ngươi quay về Ít-ra-en giải phóng dân ngươi. Cuộc chiến của ngươi với Ngài chấm dứt và lúc nầy, Ngài ban phúc cho ngươi. Ngài cho phép ngươi tiếp tục công việc của Ngài trên thế gian.”
E-li-a bàng hoàng.
- Bây giờ, chính ngay lúc tim tôi vừa tìm được bình an sao?
- Hãy nhớ lại bài học ta đã dạy ngươi. Và hãy nhớ những lời Chúa nói với Môi-sê:
Con hãy nhớ con đường Chúa đã hướng dẫn con đi, để hạ nhục con, để thử thách con, để biết con có gì trong tim. Khi con đã ăn no, khi con đã xây nhà đẹp để ở, khi đàn gia súc của con sinh sôi, hảy giữ mình đừng kiêu ngạo và quên rằng Chúa là Thiên Chúa của con.”
E-li-a hướng về phía thiên sứ.
- Còn Ak-ba? Ông hỏi.
- Nó có thể sống không cần con, vì con đã có người kế nghiệp. Thành nầy sẽ tồn tại nhiều năm nữa?
Rồi Thiên sứ Chúa biến mất.
E-li-a và cậu bé đi đến chân Ngọn Núi Thứ Năm. Cỏ dại đã mọc giữa kẻ đá của bàn thờ; từ khi thầy tư tế chết, không còn ai đến đây.
- Chúng ta sẽ trèo lên, ông nói.
- Nhưng không được phép.
- Vâng, cấm. Nhưng không có gì nguy hiểm.
Ông cầm tay em và bắt đầu leo lên núi. Thỉnh thoảng, họ dừng lại nhìn xuống thung lũng bên dưới; hạn hán đã in dấu lên cảnh vật và trừ số ruộng được chăm bón chung quanh Ak-ba, phần còn lại là một sa mạc khô cằn như bên Ai-cập.
- Em nghe các bạn nói là quân As-xi-ri sắp trở lại, cậu bé nói.
- Có thể, nhưng việc chúng ta sắp làm đây là cần thiết; đây là cách Thiên Chúa đã chọn để dạy dỗ chúng ta.
- Em không biết là Ngài lo lắng cho chúng ta, cậu bé nói. Ngài không cần phải nghiêm khắc như vậy.
- Ngài đã thử nhiều cách khác, cho đến khi Ngài nhận ra là chúng ta không nghe lời Ngài. Chúng ta nô lệ cách sống của mình, và chúng ta không đọc biết Lời Ngài.
- Lời Ngài ghi ở đâu?
- Trong thế giới chung quanh em. Chỉ cần lưu tâm đến những gì xảy ra trong đời em, và em sẽ khám phá ra rằng, vào mọi lúc trong ngày, Ngài che dấu Lời Ngài và Ý chỉ của Ngài. Cố gắng thực hiện điều Ngài yêu cầu: đó là lý do duy nhất của cuộc sống chúng ta trên đời. Nếu em khám phá ra, em sẽ viết lên trên bảng đất sét.
- Được.
- Nhưng nhất là ghi vào tim mình; ở đó, Lời sẽ không bị thiêu cháy hay tàn phá, và em sẽ mang theo bên mình dù em đi đến bất cứ nơi đâu.”
Họ đi thêm một lúc, Bây giờ đã gần đến mây.
- Em không muốn vào đó, cậu nói.
- Không có gì làm hại em đâu: đó không phải là mây . Đến với tôi.
Ông cầm tay em, họ trèo lên. Dần dần, họ đi vào vùng sương mù; cậu bé nép mình vào ông, không nói gì, dù cho, thỉnh thoảng E-li-a cố gợi chuyện. Họ bước đi giữa những tảng đá trơ trụi trên đỉnh núi.
- Quay lại thôi, cậu bé van nài.
E-li-a không cưỡng ép cậu, cậu bé nầy đã gặp biết bao nhiêu khó khăn trong cuộc đời ngắn ngủi và biết sợ. Ông ta theo lời cậu; họ ra khỏi vùng sương mù và thấy vùng thung lũng phía dưới.

- Ngày nào đó, hãy tìm trong thư viện của Ak-ba những gì tôi viết để lại cho em. Sách đó tên là “ Cẩm nang cho người chiến binh ánh sáng”.
- Em là chiến binh ánh sáng, cậu bé nói.
- Em biết tôi tên gì không? E-li-a hỏi.
- Giải thoát, cậu trả lời.
- Ngồi xuống gần tôi đây, E-li-a chỉ cho cậu tảng đá. Tôi không thể quên tên tôi. Tôi phải tiếp tục sứ mệnh của mình, dù cho, ngay lúc nầy, tất cả những gì tôi muốn là được ở với em. Chính vì thế mà Ak-ba đã được tái thiết; để dạy chúng ta phải tiến lên phía trước, mặc cho khó khăn.
- Ông bỏ đi à?
- Làm sao em biết được? ông ngạc nhiên hỏi.
- Tối hôm qua, em đã viết điều đó lên bảng. Ai đó đã nói với em, có lẽ là mẹ em, hay là một thiên sứ. Nhưng em đã cảm nhận được điều đó.
E-li-a xoa đầu cậu bé.
- Em đã đọc được ý Chúa rồi đó, ông hài lòng nói. Như thế, thì tôi không cần giải thích cho em nữa.
- Cái mà em đọc được, là nỗi buồn trong mắt ông. Em không buồn, một vài bạn em cũng thấy như vậy.
- Nỗi buồn em đọc được trong tia nhìn của tôi chỉ là một phần của chuyện đời tôi. Nhưng chỉ là một phần nhỏ thôi, chỉ kéo dài vài ngày thôi. Ngày mai, khi tôi đi về hướng Giê-ru-sa-lem, nó sẽ mất hết sức mạnh rồi từ từ sẽ tan biến. Nỗi buồn không kéo dài vô tận, khi chúng ta dấn thân đi về phía những gì chúng ta mong ước.
- Có phải cần luôn luôn ra đi?
- Phải luôn biết rằng khi nào chấm dứt một giai đoạn. Nếu em cứ ở lại mãi quá thời gian cần thiết, em sẽ mất niềm vui và ý nghĩa của nghỉ ngơi. Em có thể bị Thiên Chúa kêu gọi vào lại nề nếp.
- Chúa khắt khe quá.
- Chỉ với những người Chúa chọn”

E-li-a nhìn Ak-ba bên dưới. Vâng, đôi lúc Thiên Chúa tỏ ra khắc nghiệt, nhưng không bao giờ vượt quá khả năng chịu đựng của con người: cậu bé không biết rằng, tại chỗ em đang ngồi, thiên sứ đã dạy cho ông cách làm cho em sống lại. 
- Em sẽ nhớ tôi không? Ông hỏi.
- Ông đã nói với em là buồn phiền sẽ biến mất khi chúng ta tiến tới, cậu trả lời. Còn nhiều việc phải làm để  cho Ak-ba đẹp như mẹ em. Mẹ em đi dạo trên các đường phố.
- Hãy trở lại đây khi nào em cần tôi. Nhìn về hướng Giê-ru-sa-lem: tôi sẽ có ở đó, đang tìm cách khoác cho tên mới của mình “ Giải thoát” một ý nghĩa. Hai trái tim chúng ta sẽ liên kết với nhau mãi mãi.
- Vì thế mà ông đem em lên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm phải không? Để em có thể thấy Ít-ra-en?
- Để em thấy thung lũng, thành phố, những ngọn núi khác, đá, mây. Thiên Chúa thường lệnh cho các ngôn sứ của Ngài lên núi để hầu chuyện Ngài. Tôi thường hay tự hỏi tại sao, và bây giờ tôi đã hiểu: từ trên đỉnh núi, chúng ta có thể thấy mọi thứ là nhỏ bé. Vinh quang và đau khổ của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa. Những gì chúng ta đã đạt được hay mất đi ở lại dưới kia. Từ trên núi cao, em có thể thấy thế giới thật rộng lớn và chân trời lùi ra rất xa.

Cậu bé nhìn quanh mình. Từ trên đỉnh Ngọn Núi Thứ Năm, em cảm nhận được mùi của biển đang tắm mát bờ thành phố Tyr. Em nghe gió sa mạc thổi từ Ai-cập.
- Ngày nào đó, em sẽ cai trị Ak-ba, em nói với E-li-a. Em biết cái gì là lớn lao, nhưng em cũng biết từng góc nhỏ của thành phố. Em biết là phải cải tạo lại.
- Vậy thì làm đi. Đừng trì hoãn.
- Chúa không còn cách nào hay hơn để tỏ ra cho chúng ta tất cả những cái đó sao? Có đôi lúc , em nghĩ Chúa không tốt.
E-li-a im lặng. Ông nhớ lại cuộc trò chuyện mấy năm trước với một ngôn sứ-tư tế, khi họ đợi lính của Je-za-ben đến giết họ.
- Có lẽ Chúa xấu thật? cậu bé nhắc lại.
- Thiên Chúa toàn năng, E-li-a đáp. Ngài làm được mọi sự, không việc gì là Ngài không làm được; nếu không thì có nghĩa là còn có một Đấng khác quyền năng cao cả hơn Ngài, không cho Ngài làm một số việc. Nếu như thế, tôi thích thờ phượng và tôn vinh đấng kia hơn.
Ông ngừng nói một lúc để cho cậu bé thấu được ý nghĩa của những lời ông nói. Rồi ông nói tiếp:
- Tuy nhiên, trong quyền năng vô biên của Ngài, Ngài đã chọn chỉ làm điều Thiện. Nếu chúng ta truy nguyên cho đến tận cùng, chúng ta sẽ thấy nhiều khi cái Thiện mang dáng dấp cái Ác, nhưng vẫn là cái Thiện và là một phần của chương trình Ngài đã định cho nhân loại.”
Ông cầm tay cậu bé và trở về trong im lặng.
Đêm đó, cậu bé ôm ông nằm ngủ. Khi rạng sáng, E-li-a nhẹ nhàng đẩy em ra để khỏi đánh thức em. Đoạn ông chỉ mặc cái áo ông có và ra đi. Trên đường, ông nhặt một khúc cây làm gậy. Ông dự tính sẽ không bao giờ rời cây gậy nầy: đó là kỷ niệm cuộc chiến của ông với Thiên Chúa, của sự tàn phá và tái thiết Ak-ba.
Không nhìn lại phía sau, ông đi về hướng Ít-ra-en.

BẠT
Năm năm sau, As-xi-ri lại xâm chiếm xứ nầy một lần nữa, lần nầy với một đội quân thiện chiến hơn, các tướng giỏi hơn. Cả nước Phê-ni-xi rơi vào ách thống trị của quân xâm lược, trừ Tyr và Sa-rep-ta mà người dân gọi là Ak-ba.
Cậu bé đã thành một người đàn ông, cai trị thành phố và được người đương thời xem là một người khôn ngoan. Ông chết lúc đã lớn tuổi, vây quanh bởi những người ông yêu mến và luôn nói “phải giữ thành phố đẹp và mạnh, bởi vì mẹ ông còn đang đi dạo trên đường phố”. Nhờ hệ thống phòng thủ chung, Tyr và Sa-rep-ta chỉ bị vua As-xi-ri, Sen-na-sê-ríp đánh chiếm vào năm 701 trước Chúa giáng sinh., gần một trăm năm sau những sự kiện ghi trong sách nầy.
Nhưng các thành phố Phê-ni-xi không còn bao giờ lấy lại được tầm quan trọng của mình; lúc đó, nó phải liên tục chịu nhiều đợt tấn công- bởi tân đế quốc Ba-bi-lon, người Ba-tư, nhà Sê-lơ-xít và sau cùng là người Rô-ma. Tuy nhiên, chúng vẫn tồn tại cho đến ngày nay vì theo truyền thống xa xưa, Thiên Chúa không bao giờ chọn ngẫu nhiên những nơi ngài muốn con người cư ngụ. Tyr, Si-don và By-blos luôn luôn thuộc về nước Li-băng và ngày nay cũng là một bãi chiến trường.

E-li-a trở về Ít-ra-en và tập trung các ngôn sứ dưới chân núi Các-mê-lô. Ở đó ông chia ra hai nhóm: những người thờ Ba-an và những người thờ Thiên Chúa. Theo lệnh thiên sứ, ông giao cho nhóm thứ nhất một con bò đực tơ và bảo họ cầu xin thần của họ xuống nhận của lễ.
 Kinh Thánh kể:
“ Đến trưa, E-li-a trêu họ và nói:” la to lên, có lẽ thần đang suy tư, hay là thần đi đâu đó, hay ngài ngủ.”
Họ kêu la to hơn, và theo tục lệ, họ lấy dao rạch mình, nhưng không có tiếng gì, không có ai trả lời, không có ai phản ứng.” 
Lúc đó, E-li-a bắt lấy con vật và tế lễ theo như thiên sứ Chúa đã dạy. Lúc đó, một ngọn lửa từ trời xuống “ thiêu đốt của lễ, củi, đá”. Một vài phút sau, một trận mưa lớn rơi xuống, chấm dứt bốn năm hạn hán.
Từ lúc đó, nội chiến nổ ra. E-li-a cho giết tất cả các ngôn sứ đã phản bội Thiên Chúa và Je-za-ben cho lùng sục khắp nơi để giết ông. Nhưng ông trốn lên sườn phía tây Ngọn Núi Thứ Năm, hướng về Ít-ra-en.
Nhiều người từ Sy-ri đến xâm chiếm đất nước và giết vua A-kap, chồng của công chúa xứ Tyr, bằng một mũi tên vô tình xuyên qua lỗ hỗng trên áo giáp. Je-za-ben trốn trong lâu đài vua và sau vài cuộc nổi dậy của dân chúng, sau nhiều lần lên chấp chính và sụp đổ của các chính phủ, bà cuối cùng bị bắt. Bà đã chọn nhảy qua cửa sổ hơn là để bị bắt. 
E-li-a ở trên núi cho đến cuối đời. Kinh Thánh kể rằng một chiều kia, trong lúc ông đang nói chuyện với Ê-li-sê, vị ngôn sứ được ông chỉ định làm người kế nghiệp, “ một xe lửa và ngựa lửa chia cách hai người; và E-li-a lên trời trong bão táp.”

Tám trăm năm sau, Chúa Giêsu đem theo Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan lên núi. Tác giả Phúc Âm Mát-thêu kể rằng” Giêsu- biến hình trước mặt họ; mặt Người sáng như mặt trời, áo Người trắng như tuyết. Và đây Môisê và E-li-a đến đàm đạo với Người”.
Chúa Giê-su cấm môn đệ không cho kể với ai về chuyện nầy cho đến khi Con Người từ trong kẻ chết sống lại, nhưng họ nói là việc đó chỉ xảy ra khi E-li-a trở lại.
Phúc âm thánh Mát-thêu (17,10-13) kể lại đoạn tiếp theo của câu chuyện:
Các môn đệ hỏi Người rằng:” Vậy sao các kinh sư lại nói E-li-a phải đến trước? Người đáp:” Ông E-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông E-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế. Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả."

Nha Trang 29/11/2015

Nguyễn Phu dịch (nhân ngày lễ giỗ Bác Bình)


0 nhận xét:

Đăng nhận xét